Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), kể từ khi đại dịch diễn ra, chính phủ các nước đã chi số tiền kỷ lục, khoảng 16,9 nghìn tỷ USD, trong đó Mỹ chiếm 1/3. Kết quả là năm 2021, kinh tế thế giới đã phục hồi ngoạn mục với tăng trưởng đạt 5,9%; trong đó, các nước phát triển đạt 5,2%, các nước mới nổi và đang phát triển đạt 6,4%; kinh tế Mỹ - nền kinh tế đầu tàu thế giới tăng 5,7%, mức tăng cao nhất kể từ năm 1984.
Sự phục hồi tăng trưởng quá nhanh đã đẩy các nền kinh tế hàng đầu thế giới rơi vào thời kỳ lạm phát cao nhất trong 40 năm qua, giá hàng hóa và dịch vụ liên tục leo thang. Với kinh tế Mỹ, năm 2021, lạm phát tăng 3,9%; tiếp tục tăng cao, trở thành nỗi ám ảnh đối với người dân và các nhà quản lý khi lạm phát tăng lên 9,1% vào tháng 6/2022, mức cao nhất trong vòng 40 năm và duy trì ở mức trên 8% trong tháng 9/2022.
Tại khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone), lạm phát liên tục tăng cao. Trong năm 2022, lạm phát tháng 3 của Eurozone ở mức 7,4%, leo lên mức hai con số 10,7% vào tháng 10, là tháng thứ 12 lạm phát tăng liên tiếp.
Tại Đức, lạm phát đã tăng lên 10,4% vào tháng 10/2022, đạt mức cao nhất trong 70 năm qua; tại Anh, lạm phát tháng 10/2022 tăng tới 11%, mức cao nhất trong 41 năm qua.
Lạm phát tăng cao và lan rộng, không chỉ với năng lượng, lương thực, thực phẩm, mà còn thâm nhập vào các loại hàng hóa và dịch vụ khác. Lạm phát hiện đã vượt xa lạm phát mục tiêu của các ngân hàng trung ương, khiến mức sống của người dân ngày càng bị thắt chặt, sức mua giảm sút; tại nhiều quốc gia, tiền lương không theo kịp lạm phát.
Tại Mỹ, lạm phát kết hợp với tỷ lệ thất nghiệp thấp, thị trường lao động mạnh khiến tiền lương gia tăng, càng làm tăng nguy cơ rơi vào “vòng xoáy lạm phát - tiền lương”.
Dự báo năm 2023 lạm phát thế giới sẽ giảm dần, nhưng vẫn cao hơn khá nhiều so với mức lạm phát mục tiêu tại hầu hết các quốc gia.
Theo nghiên cứu của IMF, khi lãi suất cơ bản tăng 1 điểm phần trăm có thể giảm lạm phát tối đa 1 điểm phần trăm, tuy nhiên để đạt hiệu quả tối đa sẽ phải mất từ 2- 4 năm.
Để chặn lạm phát tăng cao và đưa về gần với mức lạm phát mục tiêu, trong năm 2022, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã 7 lần tăng lãi suất liên tiếp với tốc độ nhanh nhất kể từ năm 1980, đưa lãi suất liên bang từ mức gần 0% hồi tháng 3/2022 lên mức 4,25 - 4,5%, mức cao nhất kể từ tháng 1/2008.
Tính đến cuối tháng 11/2022, chỉ số đồng USD đã tăng đến 18% so với cùng kỳ năm ngoái, tác động tới lạm phát toàn cầu.
Theo tính toán của IMF, khi đồng USD tăng giá 10% sẽ làm giá tiêu dùng ở các nền kinh tế khác tăng thêm trung bình khoảng 1%, tác động sẽ lớn hơn ở những nền kinh tế phụ thuộc nhiều hơn vào nhập khẩu. Điều này cho thấy tác động rất mạnh khi Fed tăng lãi suất USD dẫn tới gia tăng lạm phát tại các quốc gia trên toàn thế giới.
Để giảm tác động của Fed tăng lãi suất tới các nền kinh tế, ngân hàng trung ương các nước coi điều chỉnh lãi suất là giải pháp và công cụ quan trọng để hỗ trợ đồng nội tệ.
Một số ngân hàng trung ương đón đầu lần tăng lãi suất vào tháng 12/2022 của Fed đã chủ động tăng lãi suất trước. Đến thời điểm đầu tháng 12/2022, có khoảng 90 quốc gia và các nền kinh tế đã tăng lãi suất cơ bản với 334 lượt tăng. Nhiều nền kinh tế mới nổi đã tăng lãi suất trước cả Fed và tăng rất nhanh vì đồng nội tệ của họ yếu đi nhiều và quá nhanh so với USD, làm tăng chi phí nhập khẩu và qua đó gia tăng lạm phát.
Ngày 27/10/2022, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã nâng lãi suất thêm 0,75%, đưa mức lãi suất của khu vực Eurozone lên mức 2%, mức cao chưa từng thấy kể từ năm 2009; đồng thời, ECB xác nhận lộ trình tăng lãi suất vẫn chưa chấm dứt.
Ngày 3/11/2022, Ngân hàng trung ương Anh (BoE) đã tăng lãi suất thêm 0,75%, mức tăng lớn nhất trong 33 năm, đưa lãi suất của Anh lên 3%, mức cao nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, là lần thứ 8 liên tiếp BoE tăng lãi suất. BoE cho biết nước Anh đang rơi vào tình trạng suy thoái, dự báo kéo dài đến giữa năm 2024.
Năm 2023, dự báo tình hình kinh tế, chính trị thế giới tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, nhiều yếu tố rủi ro bất định. Thị trường tài chính và tiền tệ thế giới tiềm ẩn rủi ro và bất ổn. Xung đột tại Ukraine chưa có hồi kết ảnh hưởng đến giá xăng dầu, chi phí vận tải, logistics, chuỗi cung ứng; nguy cơ mất ổn định an ninh năng lượng, lương thực. Lạm phát năm 2023 sẽ giảm nhưng vẫn ở mức rất cao so với lạm phát mục tiêu của các ngân hàng trung ương, vẫn là rủi ro lớn nhất với nhiều nền kinh tế; các quốc gia tiếp tục tăng lãi suất, thực hiện chính sách tiền tệ và tài khóa thắt chặt.
Tại Mỹ, sau khi đạt đỉnh vào tháng 6/2022, lạm phát giảm dần qua các tháng tiếp theo xuống 7,7% vào tháng 10 và 7,1% vào tháng 11. Đây là cơ sở để ngày 30/11/2022, Chủ tịch Fed, ông Jerome Powell xác nhận sắp tới cơ quan này có thể tăng lãi suất cơ bản chậm lại, mặc dù cuộc chiến chống lạm phát ở Mỹ vẫn chưa có tiến triển đủ rõ ràng, đồng thời cảnh báo chính sách tiền tệ nhiều khả năng vẫn sẽ được thắt chặt một thời gian nữa, cho tới khi có tín hiệu lạm phát đã cải thiện.
Ngày 14/12/2022, Fed tiếp tục tăng lãi suất thêm 0,5%, tốc độ chậm hơn so với 3 lần tăng trước đó. Fed dự kiến sẽ nâng mức lãi suất lên 4,75 - 5% trong quý đầu tiên của năm 2023 và phải mất rất lâu mới có thể cắt giảm mức lãi suất này.
Tại khu vực Eurozone, lạm phát có thể đã đạt đỉnh, đây là tín hiệu để ECB nâng lãi suất chậm lại trong thời gian tới.
Việc Fed phát đi tín hiệu tăng lãi suất với lộ trình và tốc độ tăng chậm lại sẽ giảm bớt áp lực với các ngân hàng trung ương khác trên toàn cầu phải tăng lãi suất theo.
Tuy vậy, Giám đốc IMF, Kristalina Georgieva cho rằng: “Lạm phát cao đang làm suy yếu tăng trưởng và tác động nặng nề nhất tới những nhóm người nghèo nhất trong nền kinh tế. Thời gian qua, các ngân hàng trung ương tăng lãi suất để đạt tới một mức lãi suất phù hợp kiềm chế lạm phát, nhưng ở hầu hết các quốc gia vẫn chưa đạt tới mức cần thiết này”. Giám đốc IMF khuyên các ngân hàng trung ương tiếp tục tăng lãi suất hơn nữa để kiềm chế lạm phát cho đến khi lãi suất về mức “trung tính”. IMF dự báo đến năm 2024, những chính sách hiện nay của các ngân hàng trung ương mới cho thấy hiệu quả.
Cùng quan điểm với Giám đốc IMF, Cựu Bộ trưởng Tài chính Mỹ Larry Summers cho rằng các nhà kinh tế và các chính trị gia đang sai lầm khi thúc giục Fed tạm dừng các đợt tăng lãi suất mạnh với mục đích chống lạm phát. Nhìn vào lịch sử nền kinh tế cho thấy nhiều lần Fed đã làm chưa tới, do đó lạm phát leo thang. Ngay cả khi nền kinh tế suy sụp hoặc suy thoái, Fed sẽ không thể hạ lạm phát xuống dưới 2% nếu không tăng lãi suất một cách mạnh mẽ. Ông Summers dự đoán: tốt nhất Fed cần tăng lãi suất lên 5,5% nếu xuất hiện triển vọng quan trọng trong việc hạ lạm phát về mức mục tiêu mà Fed đã cam kết.
Nếu triển vọng lạm phát không chắc chắn, khi đó Fed sẽ thắt chặt chính sách tiền tệ trong thời gian dài hơn, khiến kinh tế rơi vào suy thoái sâu hơn. Tuy vậy, nếu suy thoái kinh tế toàn cầu xảy ra vào năm 2023, lãi suất có thể sẽ ổn định và thậm chí có thể giảm xuống, song có thể chỉ mang tính tạm thời.
Trong khi đó nhiều nền kinh tế mới nổi, như ở Mỹ Latinh, lãi suất đã đạt tới mức lãi suất đỉnh và đang rất muốn giảm lãi suất, nếu Fed cũng giảm lãi suất.
Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt với lộ trình tăng lãi suất thấp hơn, lạm phát của Mỹ có thể hạ nhiệt và giảm xuống 4,1% vào cuối năm 2023; trong khi đó, dự báo lạm phát năm 2023 của khu vực châu Âu khoảng 6% đối với các nền kinh tế phát triển và 12% ở các nền kinh tế mới nổi.
Năm 2023, Trung Quốc đang dần loại bỏ chính sách Zero Covid, mở cửa trở lại nền kinh tế. Khi nền kinh tế khởi sắc, Trung Quốc sẽ tăng nhập khẩu dầu thô, nguyên vật liệu sản xuất, hàng hóa công nghiệp, đẩy giá nguyên liệu thô thế giới tăng lên, gây áp lực tăng giá nhiều loại hàng hóa tiêu dùng và các loại dịch vụ khác, khi đó lạm phát toàn cầu sẽ bật tăng. Nếu Trung Quốc mở cửa hoàn toàn vào giữa năm 2023, Bloomberg ước tính giá năng lượng sẽ tăng 20% và chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ dự báo sẽ giảm xuống 3,9% vào giữa năm, có nguy cơ tăng vọt lên 5,7% vào cuối năm 2023.
Đối với kinh tế Việt Nam, Fed liên tiếp tăng lãi suất tác động khá mạnh tới thị trường tiền tệ và giá trị của đồng Việt Nam (VND). Trong một tháng, kể từ đầu tháng 10/2022 đến ngày 3/11/2022 so với cuối tháng 9/2022, VND đã mất giá 4,1% so với USD, lũy kế từ đầu năm 2022 đến 3/11/2022, VND đã mất giá khoảng 8,8% trên thị trường chính thức. Tại thời điểm ngày 8 tháng 12/2022 so với cuối năm 2021, VND mất giá 4,29% so với USD. Dự báo cả năm 2022, VND mất giá khoảng 4 - 5% so với USD.
Trước sức ép rất lớn của USD tăng giá do Fed liên tục tăng lãi suất với tốc độ nhanh, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh biên độ tỷ giá, đồng thời trong vòng 1 tháng đã hai lần tăng lãi suất điều hành. Việc thực hiện đồng bộ công cụ lãi suất và tỷ giá đã góp phần đạt được 2 mục tiêu quan trọng, đó là bảo đảm giá trị VND và kiểm soát lạm phát.
Sau khi điều chỉnh tăng lãi suất điều hành, mặt bằng lãi suất huy động của hệ thống ngân hàng thương mại tăng cao. Động thái này khiến cuộc đua lãi suất trên thị trường thêm nóng khi các ngân hàng nhỏ sẽ phải tiếp tục vào đường đua để giữ dòng vốn. Các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước đều nâng lãi suất tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn 1 năm lên mức 8,5%. Những năm trước, Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam huy động vốn với lãi suất thấp, từ đầu tháng 11/2022 liên tục tăng lãi suất huy động tiết kiệm, hiện nay mức lãi suất huy động cao nhất lên 9,3%/năm ở kỳ hạn từ 12 tháng trở lên.
Với 70% giá trị kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam được thực hiện bằng USD, khi lãi suất USD tăng làm suy giảm tổng cầu thế giới, các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam có xu hướng bị thu hẹp, giá hàng hóa thế giới tăng sẽ tác động tiêu cực tới thương mại quốc tế, tới sản xuất kinh doanh và gia tăng lạm phát chi phí đẩy của kinh tế Việt Nam.
Lạm phát của kinh tế Việt Nam trong năm 2022 và các năm trước đều thấp hơn mục tiêu do các loại hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng dồi dào, tổng cầu không tăng đột biến và hiệu quả điều hành của Chính phủ trong kiểm soát lạm phát. Vì vậy tác động của Fed và ngân hàng trung ương các nền kinh tế lớn tăng lãi suất đến lạm phát của nước ta không lớn.
Năm 2023, bức tranh lạm phát của kinh tế Việt Nam có nhiều nét đáng quan tâm với áp lực lạm phát đến từ nhiều yếu tố: áp lực cầu kéo do tổng cầu tăng đột biến từ thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh đứt gãy chuỗi cung ứng chưa được khắc phục; áp lực chi phí đẩy do giá nguyên, nhiên, vật liệu thế giới vẫn ở mức cao và có khả năng tăng trở lại khi Trung Quốc mở cửa nền kinh tế, trong khi kinh tế nước ta nhập khẩu khá nhiều nguyên, nhiên vật liệu phục vụ sản xuất; áp lực tăng giá từ các loại hàng hóa, dịch vụ chiến lược do Nhà nước quản lý như điện, y tế, giáo dục; tăng lương cơ sở từ ngày 1/7/2023; áp lực từ tăng tỷ giá hối đoái giữa VND và USD. Bên cạnh đó, thiên tai, dịch bệnh có thể gây tăng giá lương thực, thực phẩm tại một số địa phương bị ảnh hưởng, tác động làm gia tăng lạm phát.
Năm 2023, để giữ ổn định vĩ mô, đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,5% và kiểm soát lạm phát 4,5%, Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp cần thực hiện một số nhóm giải pháp sau:
Đối với Chính phủ, cần tập trung vào 8 giải pháp chính.
Thứ nhất, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính, rà soát bãi bỏ các quy định không hợp lý nhằm cắt giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, đảm bảo đủ nguồn cung đáp ứng tổng cầu tăng, giảm áp lực lạm phát.
Thứ hai, thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ linh hoạt, phù hợp, giữ ổn định vĩ mô; điều chỉnh tỷ giá linh hoạt hạn chế tối đa lạm phát do tỷ giá, đồng thời giữ ổn định thị trường ngoại hối, thị trường tiền tệ. Có giải pháp cung ứng ngoại tệ cho các doanh nghiệp nhập khẩu, tránh rủi ro biến động tăng cao của tỷ giá.
Thứ ba, tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ như: giãn, hoãn, miễn thuế, hỗ trợ lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp. Xác định cụ thể từng ngành, lĩnh vực cần ưu tiên hỗ trợ vốn để duy trì và phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng, giữ vững ổn định vĩ mô.
Thứ tư, minh bạch và đơn giản hóa quy trình thương mại; khuyến khích và đẩy mạnh chia sẻ thông tin về thương mại và giá cả; giữ vững năng lực cạnh tranh và thị phần của hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới. Dự báo sớm các mặt hàng có thể thiếu hụt trong dài hạn để có chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư sản xuất các mặt hàng này, chủ động nguồn nguyên vật liệu, tăng tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.
Thứ năm, chủ động xây dựng và thực hiện các giải pháp đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia; nắm bắt kịp thời giá xăng dầu thế giới, nâng cao năng lực và chất lượng dự báo, có giải pháp tổng thể đảm bảo đầy đủ nguồn cung xăng dầu dài hạn hơn. Mở rộng, nâng cao năng lực dự trữ xăng dầu quốc gia đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, giảm bớt lệ thuộc và tác hại của biến động giá xăng dầu thế giới đến sự ổn định và phát triển kinh tế của đất nước. Đặc biệt, cần khẩn trương xây dựng chiến lược và lộ trình thực hiện chuyển đổi sang sử dụng năng lượng tái tạo, năng lượng xanh; có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp đầu tư sử dụng năng lượng tái tạo.
Điện là mặt hàng năng lượng quan trọng, không thể thiếu trong sản xuất và tiêu dùng. Bộ Công Thương cần dự báo, xây dựng kế hoạch, giải pháp cung ứng đủ điện cho sản xuất và tiêu dùng trong bất kỳ hoàn cảnh nào cho từng quý trong năm 2023.
Thứ sáu, đánh giá tác động của việc tăng giá điện, dịch vụ y tế, giáo dục, tăng lương cơ sở đối với lạm phát và tăng trưởng kinh tế để quyết định mức độ và thời điểm điều chỉnh giá điện, giá các loại dịch vụ do Nhà nước quản lý, tránh gây cộng hưởng lạm phát chi phí đẩy, tạo ra lạm phát kỳ vọng của nền kinh tế.
Thứ bảy, xây dựng và thực hiện chính sách, giải pháp hỗ trợ có mục tiêu cho những người có thu nhập thấp, dễ bị tổn thương; thực hiện hiệu quả công tác an sinh xã hội, để không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển của đất nước.
Thứ tám, thực hiện hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền để thông tin kịp thời, chính xác, rõ ràng về các chính sách, giải pháp chỉ đạo, điều hành của Chính phủ; ổn định tâm lý xã hội, tâm lý người dân về các chủ trương, chính sách điều hành kinh tế - xã hội nhất quán, kịp thời của Chính phủ. Loại bỏ thông tin sai lệch về giá cả, thị trường, giảm thiểu lạm phát kỳ vọng khi thực thi chính sách tài khóa, tiền tệ và điều chỉnh tiền lương.
Đối với cộng đồng doanh nghiệp, cần lưu ý 5 giải pháp.
Một là, phát huy tinh thần chủ động, linh hoạt, chuẩn bị đầy đủ các điều kiện duy trì và thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo đảm nguồn cung và lưu thông hàng hóa.
Hai là, đa dạng và đảm bảo nguồn cung cho sản xuất của từng nhóm nguyên, vật liệu của mỗi ngành để không phụ thuộc vào một thị trường, một khu vực. Các doanh nghiệp nhập khẩu chủ động nguồn ngoại tệ, nghiên cứu các điều kiện để tham gia thị trường mua ngoại tệ kỳ hạn, quyền chọn, tham gia thị trường phái sinh có uy tín để bảo vệ giá trị tiền vốn của doanh nghiệp, giảm thiểu rủi ro tỷ giá khi nhập khẩu.
Ba là, chủ động nắm bắt, cập nhật thông tin và dự báo chính xác động thái thị trường, nhất là xu hướng, mức độ và lộ trình tăng giá, tăng lãi suất để chủ động trong xây dựng, điều chỉnh và thực hiện kế hoạch tài chính, kinh doanh.
Bốn là, đẩy mạnh liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp vừa là giải pháp ứng phó bất ổn, vừa là công cụ để cạnh tranh chiến lược, nâng cao năng lực và khả năng thích ứng trước các biến động, bất ổn khó lường của kinh tế thế giới.
Năm là, doanh nghiệp cần tập trung đầu tư chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo, cắt giảm chi phí do giá năng lượng tăng cao, tăng lợi nhuận trong dài hạn, cải thiện hình ảnh thương hiệu, gia tăng lợi thế cạnh tranh và thu hút các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần đầu tư về công nghệ, nhân sự và các lĩnh vực khác để nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, thúc đẩy tăng trưởng mang lại lợi ích lâu dài.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động khó lường, không chắc chắn và phức tạp, khi chính sách, giải pháp đã được ban hành, Chính phủ khẩn trương chỉ đạo và giám sát việc triển khai thực hiện nhằm phát huy hiệu quả các chính sách, giải pháp.