Giữ vững kiểm soát lạm phát dưới 4%
Trong 8 tháng năm 2022, thị trường hàng hóa thế giới đã có rất nhiều biến động do ảnh hưởng của nhiều nhân tố kinh tế, chính trị, trong đó nổi lên là cuộc xung đột giữa Nga và Ukraina kéo dài, chính sách phong tỏa phòng, chống dịch Covid-19 của Trung Quốc… Nhiều nhân tố trên đã dẫn đến tình trạng gián đoạn chuỗi cung ứng và nguy cơ lạm phát kìm hãm tăng trưởng.
Mặc dù gặp nhiều sức ép từ những khó khăn trên thế giới, nhưng kinh tế trong nước vẫn giữ được xu hướng phục hồi tốt nhờ các giải pháp đồng bộ được Chính phủ triển khai quyết liệt để giảm giá xăng dầu, ổn định giá điện, nước sinh hoạt, học phí, duy trì mặt bằng tỉ giá, lãi suất hợp lý... nên lạm phát được kiểm soát đáng kể. Thông tin từ Tổng cục Thống kê, CPI bình quân 8 tháng năm 2022 tăng 2,58% so với cùng kỳ năm 2021. Trong khi đó, chỉ số lạm phát cơ bản bình quân trong 8 tháng năm 2022, tăng 1,64% so với cùng kỳ.
PGS. TS. Đinh Trọng Thịnh dự báo, trong các tháng còn lại của năm 2022 nếu giá dầu và nguồn cung nguyên vật liệu ổn định như hiện nay, lãi suất của các nền kinh tế lớn tăng không quá cao, kinh tế thế giới phục hồi chậm, các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng được cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do (FTA), kinh tế Việt Nam có thể tăng trưởng ở mức 7 - 7,5% thì khả năng lạm phát cả năm sẽ trong khoảng 2,9 - 3,2%.
Trong trường hợp giá dầu thô hạ xuống thấp hơn hiện nay, cơ hội chống lạm phát của các quốc gia tốt hơn, kinh tế thế giới phục hồi gần với dự báo từ đầu năm, các gói hỗ trợ hồi phục và tăng trưởng kinh tế phát huy tốt tác dụng, doanh nghiệp Việt Nam tận dụng tốt các cơ hội, nắm bắt và thích ứng với các FTA mà Việt Nam đã ký kết và những thay đổi lớn trong nền kinh tế thế giới, đẩy mạnh xuất nhập khẩu, khu vực du lịch, dịch vụ tăng trưởng mạnh mẽ, tăng trưởng năm 2022 đạt mức 7,8 - 8,5% thì khả năng lạm phát cả năm có thể sẽ ở mức là 3,3 - 3,6%.
Theo dự báo của Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách VEPR, lạm phát trong nước năm 2022 của Việt Nam sẽ ở mức 3,5 - 3,8%. Bộ Tài chính vào phiên họp chiều 24/8 cũng dự báo lạm phát bình quân năm 2022 tăng trong khoảng 3,37 - 3,87%. Bên cạnh đó, Tổng cục Thống kê dự báo tăng trong khoảng 3,4 - 3,7%.
Trong khi đó, tại phiên toàn thể của Diễn đàn Kinh tế - Xã hội năm 2022 chiều 18/9, dự báo bối cảnh quốc tế, trong nước năm 2023, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương nêu rõ, trong nước, nền kinh tế tiếp tục phục hồi, nhưng tăng trưởng kinh tế khả năng sẽ khó khăn hơn trong quý IV/2022 và năm 2023; xu hướng chung của nhiều tổ chức quốc tế là nâng dự báo tăng trưởng năm 2022 nhưng cũng đồng thời hạ dự báo tăng trưởng năm 2023 của Việt Nam.
Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo, GDP nước ta tăng 7,5% năm 2022 và 6,7% năm 2023. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng của Việt Nam năm 2022 là 7% (tăng so với mức dự báo 6% tại thời điểm 16/5/2022), năm 2023 là 6,7% (giảm so với mức dự báo 7,2% vào thời điểm 16/5/2022).
Sử dụng linh hoạt chính sách tài khóa an toàn
Trước những áp lực liên quan đến lạm phát, PGS. TS Đinh Trọng Thịnh đã đưa ra 8 biện pháp tổng thể để kìm chế lạm phát. Đầu tiên là đẩy mạnh công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19 để tạo tiền đề ổn định sản xuất, ổn định thị trường, bình ổn giá cả các mặt hàng.
Thứ hai là giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, tạo nền tảng cho phục hồi và phát triển bền vững của nền kinh tế.
Biện pháp thứ ba, Ngân hàng Nhà nước chủ động, thực hiện điều hành linh hoạt lãi suất, công cụ thị trường mở, tích cực quản lý và điều chỉnh tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, từng bước ổn định và nâng cao giá trị đồng Việt Nam, góp phần kìm giữ lạm phát cơ bản để làm cơ sở cho việc kìm giữ chỉ số giá tiêu dùng bình quân (CPI). Ngân hàng Nhà nước cần thường xuyên kiểm tra, giám sát việc cung tiền, mở rộng tín dụng và điều hành linh hoạt lãi suất, tỷ giá để giảm sức ép lạm phát trong các tháng cuối năm.
Thứ tư, Bộ Tài chính cần xem xét kỹ lưỡng nhu cầu và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, tính toán cẩn trọng mức độ, thời hạn, hình thức, phương thức huy động vay nợ công để vừa đảm bảo kích thích nền kinh tế hồi phục và phát triển nhanh chóng, vừa đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay, đảm bảo khả năng trả nợ vay và sự ổn định và phát triển trong dài hạn của nền kinh tế.
Thứ năm, Tổng cục Quản lý thị trường Bộ Công Thương và Cục Quản lý giá Bộ Tài chính cần tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động giá cả, thị trường, tránh tình trạng “té nước theo mưa” của một số chủ thể, nhất là với các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, hàng hóa, thiết bị, vật tư y tế phòng chống dịch bệnh, đảm bảo ổn định mặt bằng giá cả.
Thứ sáu, việc thực hiện tăng giá dịch vụ giáo dục và cơ chế tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập có thể làm tăng các chi phí dịch vụ công. Hiện nay, nhiều trường đại học đang xem xét việc tăng chi phí trong năm học mới có thể là nhân tố đẩy tăng lạm phát.
Thứ bảy, cần tuyên truyền thực hiện tốt các quy định về công khai, minh bạch các thông tin về giá, đặc biệt là đối với các mặt hàng bình ổn giá, mặt hàng thuộc danh mục kê khai giá, các mặt hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, tránh lạm phát kỳ vọng, tránh các tin đồn thất thiệt gây hoang mang tâm lý, ảnh hưởng xấu tới mặt bằng giá cả của một số mặt hàng và mặt bằng giá cả của nền kinh tế.
Biện pháp cuối cùng là kiểm tra chặt chẽ các yếu tố hình thành giá đối với các mặt hàng bình ổn giá, mặt hàng thuộc danh mục kê khai giá, các mặt hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá, tránh việc điều chỉnh giá, tăng giá bất hợp lý. Với những mặt hàng có lộ trình tăng giá, cần xác định rõ mức độ, thời điểm thực hiện, tránh trùng các thời điểm có thể gây biến động lớn đến mặt bằng giá cả của nền kinh tế.
Theo Bà Nguyễn Thị Hương, Tổng Cục trưởng Tổng cục Thống kê cũng đưa ra một số giải pháp kìm giữ lạm phát. Các bộ, ngành, địa phương cần chuẩn bị đầy đủ nguồn hàng nhằm đảm bảo đáp ứng kịp thời nhu cầu của người dân đối với các mặt hàng lương thực, thực phẩm, hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thiết yếu như thịt lợn, xăng dầu, các nguyên liệu đầu vào quan trọng khác (sắt thép, vật liệu xây dựng, thức ăn chăn nuôi). Đồng thời chủ động các biện pháp bình ổn giá các mặt hàng, không để xảy ra các trường hợp tăng giá bất hợp lý.
Cũng theo bà Hương, cần tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, đặc biệt cần đảm bảo cung ứng đầy đủ, kịp thời vốn tín dụng cho nền kinh tế nhưng không chủ quan với rủi ro lạm phát.
Đặc biệt, chú trọng công tác tuyên truyền kịp thời, minh bạch thông tin về giá và công tác tham mưu của Bộ Công Thương, Bộ Tài chính và công tác điều hành giá của Chính phủ, Ban chỉ đạo điều hành giá, nhất là diễn biến giá cả các vật tư quan trọng, các mặt hàng thiết yếu liên quan đến sản xuất và đời sống người dân để hạn chế gia tăng lạm phát, ổn định tâm lý người tiêu dùng và doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế - Xã hội năm 2022, Chuyên gia Kinh tế trưởng WB tại Việt Nam - ông Andrea Coppola nêu quan điểm: Qua thống kê, khảo sát các số liệu cho thấy, trong khi các nước trên thế giới đang quan ngại về tình hình lạm phát, Việt Nam vẫn đang thực hiện linh hoạt các chính sách kinh tế, kiểm soát tốt lạm phát. Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam ở mức thấp so với thế giới. GDP tăng trưởng ở mức khả quan. Đặc biệt, cơ cấu kinh tế tương đối hợp lý, tỷ lệ đóng góp của khối ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế khá lớn và không ngừng tăng nhanh trong thời gian gần đây.
Việt Nam đang hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, ổn định kinh tế vĩ mô thông qua chính sách tài khóa mang tính hỗ trợ, chính sách tiền tệ linh hoạt và hệ thống ngân hàng được tăng cường. Để đạt được mục tiêu đó, ông Andrea Coppola cho rằng, Việt Nam cần đổi mới mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh tích lũy đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Bên cạnh đó, Việt Nam không nên giảm giá đồng Việt Nam, bởi điều này có thể gây bất ổn tài chính và không nên tăng lãi suất hay sử dụng các công cụ tài chính mà nên sử dụng các chính sách tài khóa an toàn.