Xuất siêu gần 8 tỷ USD, đây là một kỷ lục!
Tiếp tục kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV, sáng 22/10, Quốc hội thảo luận ở tổ về: Kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023.
Phát biểu tại phiên họp tổ, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh, để đạt được những kết quả tốt trong phục hồi kinh tế thời gian qua do nguyên nhân: Thứ nhất, chúng ta đã kiểm soát được đại dịch Covid-19.
“Mặc dù là quốc gia tiếp cận nguồn vắc xin muộn nhưng khi triển khai độ bao phủ vắc xin lại rất nhanh, tiêm mũi 3 đến thời điểm tháng 3/2022 đạt độ bao phủ khoảng 60% bình quân, rõ ràng dịch bệnh đã được kiểm soát trên phạm vi cả nước”- Bộ trưởng nêu.
Thứ hai, cùng với việc kiểm soát được đại dịch, nước ta đã mở cửa nền kinh tế lần hai đúng thời điểm. Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chỉ ra, thời điểm đó, Chính phủ đã thảo luận, liệu có tiếp tục duy trì công thức “một cung đường hai điểm đến” hay là “3 tại chỗ” hay không trong sản xuất công nghiệp, vì xác định công nghiệp vẫn là chủ lực, phòng chống dịch có hiệu quả trên phạm vi cả nước thì việc mở cửa lần hai nền kinh tế là vô cùng quan trọng.
“Chúng ta có được một hệ thống doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp FDI, có năng lực sản xuất và năng lực xuất khẩu rất tốt, trong bối cảnh thế giới đứt gãy rất nhiều nguồn cung cả về nguyên liệu và sản xuất, gây ra thiếu hụt các loại hàng hóa, như vậy nước ta đã mở cửa đúng lúc, thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển, tìm kiếm thị trường mới”- người đứng đầu ngành Công Thương lý giải.
Bộ trưởng dẫn chứng, nếu như năm 2021 là năm bị ảnh hưởng lớn bởi đại dịch Covid-19, nhưng cũng là năm đầu tiên trong lịch sử mà kim ngạch xuất nhập khẩu của đất nước đạt 658 tỷ USD, trở thành một trong 20 quốc gia có thương mại quốc tế lớn nhất thế giới.
“Rõ ràng, thấy được năng lực sản xuất của nước ta lớn thế nào, chúng ta đã tranh thủ được thị trường thế giới khan hiếm về hàng hóa và tranh thủ cơ hội để phát triển tốt”- Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhìn nhận, đồng thời chia sẻ một "tin vui", đó là theo thống kê 9 tháng năm 2022, xuất nhập khẩu tiếp tục tăng cao so với cùng kỳ, đạt gần 558 tỷ USD.
Trong đó, xuất khẩu đạt 282,3 tỷ USD, tăng 17,2%, gấp 2 lần so với mục tiêu của ngành (mục tiêu cả năm xuất khẩu tăng khoảng 8%). Cán cân thương mại tiếp tục duy trì xuất siêu 6,76 tỷ USD (cùng kỳ nhập siêu 3,44 tỷ USD), góp phần làm tích cực cho cán cân thanh toán, ổn định tỷ giá và ổn định các chỉ số kinh tế vĩ mô khác của nền kinh tế.
Mặc dù 10 ngày nữa mới hết tháng, đến ngày hôm qua, nhưng theo số liệu Bộ Công Thương, kim ngạch hai chiều đã đạt 620 tỷ USD. “Như vậy chỉ còn thiếu hơn 40 tỷ USD nữa là bằng số của năm 2021 và đến giờ này chúng ta xuất siêu gần 8 tỷ USD, đây là một kỷ lục”- Bộ trưởng bày tỏ.
Bộ trưởng thông tin thêm, hiện Việt Nam có 32 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, cao hơn so 2 mặt hàng so với cùng kỳ năm trước Đặc biệt, tăng trưởng tập trung ở mặt hàng Việt Nam ta có thế mạnh và khai thác tốt các FTA như: Hàng dệt may (tăng 24%) và da giày (tăng 36%).
Bên cạnh đó những mặt hàng tranh thủ được giá cao để đẩy mạnh xuất khẩu: hóa chất, sản phẩm chất dẻo, phân bón, thép... Các doanh nghiệp đang khai thác rất hiệu quả lợi thế từ các FTA để đẩy mạnh xuất khẩu; Thị trường truyền thống được khai thác triệt để, mở thêm các thị trường mới.
Mặc dù đạt được kết quả tích cực, Bộ trưởng phân tích, xuất khẩu tăng trưởng cao nhưng chưa thật sự bền vững do còn thiếu sự cân đối về cơ cấu thị trường xuất khẩu, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu và cơ cấu chủ thể xuất khẩu.
Cụ thể, xuất khẩu vẫn phụ thuộc vào khu vực FDI (chiếm hơn 74%), tốc độ đa dạng hoá thị trường ở một số sản phẩm (như rau quả) còn chậm nên chưa có khả năng đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn, chất lượng của các thị trường và các ưu đãi thuế quan từ các FTA đã ký kết.
“Xuất nhập khẩu còn phụ thuộc một số thị trường lớn, tiềm ẩn rủi ro, năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa còn chưa cao”- Bộ trưởng nêu rõ.
Theo đó, Bộ trưởng đưa ra giải pháp, cần tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu, tăng cường quản lý nhập khẩu phù hợp, bảo đảm cán cân thương mại hài hòa, bền vững, thúc đẩy xuất khẩu chính ngạch gắn với tái cơ cấu ngành hàng và xây dựng thương hiệu.
Nhất là các tỉnh Nam Bộ, Trung Bộ đối với sản phẩm nông sản phải tìm hiểu thị trường và phải đáp ứng được yêu cầu tại các thị trường, hướng tới xuất khẩu chính ngạch. “Nếu xuất khẩu chính ngạch thì trong mọi tình huống không bao giờ chúng ta bị thiệt hại. Đồng thời, tập trung đẩy mạnh khai thác các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết, phát huy tốt vai trò hệ thống cơ quan thương vụ nước ngoài, cảnh báo sớm các nguy cơ, vụ kiện thương mại để các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả” - Bộ trưởng lưu ý.
Các ngành sản xuất đã phục hồi tích cực
Đối với lĩnh vực công nghiệp, Bộ trưởng nhìn nhận, giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp đã tăng được 9,63%, cao hơn so với mức tăng chung của toàn nền kinh tế (tăng 8,83%) và tăng cao hơn so với mức tăng của cùng kỳ năm trước (9 tháng/2021 tăng 4,45%). Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,69%, đóng góp 2,74 điểm phần trăm vào tốc độ tăng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.
Đáng chú ý, quy mô sản xuất công nghiệp tiếp tục được mở rộng với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 9 tháng tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng/2021 tăng 3,9%). Tăng trưởng cao ở 2 nhóm: Nhóm ngành công nghiệp chế biến chế tạo với tốc độ tăng 10,4% và Nhóm sản xuất và phân phối điện tăng 7,5%.
Bộ trưởng cũng chỉ ra mặt được của các ngành sản xuất đã bước vào giai đoạn phục hồi tích cực, cơ bản nối lại được các chuỗi cung ứng, cả sản lượng và số lượng đơn hàng mới đều tăng, sản xuất đáp ứng nhu cầu của thị trường nội địa và xuất khẩu. “Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng ở 61/63 địa phương. Cơ bản đảm bảo đủ điện, xăng dầu, nguyên vật liệu cho sản xuất, tiêu dùng, sinh hoạt”- Bộ trưởng đánh giá.
Tuy nhiên, sản xuất công nghiệp chưa lấy lại được đà tăng trưởng như trước dịch bệnh ở một số địa phương trọng điểm và một số ngành hàng công nghiệp chế biến, chế tạo; ngành khai khoáng và ngành sản xuất, phân phối điện tăng thấp; các doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn trong hồi phục sản xuất năng lực sản xuất công nghiệp chậm được cải thiện, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp nền tảng, then chốt mức độ liên kết và tham gia chuỗi giá trị của doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp FDI diễn ra còn chậm.
Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,69%, đóng góp 2,74 điểm% vào tốc độ tăng thêm của toàn nền kinh tế, quy mô sản xuất công nghiệp thì tiếp tục được mở rộng với chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng tăng 9,6%, 9 tháng trước chỉ tăng 3,9% so với cùng kỳ năm 2020 thôi và nó đã tăng 2 nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với tốc độ tăng 10,4 % và nhóm sản xuất phân phối điện tăng 7,5%.
Theo đó, thời gian tới cần tiếp tục tập trung tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh sản xuất công nghiệp khôi phục sản xuất kinh doanh để đưa các dự án công nghiệp lớn có vai trò quan trọng đi vào vận hành. Đồng thời tổ chức kết nối cho các doanh nghiệp trong tìm kiếm nguyên vật liệu phù hợp, tham gia vào chuỗi giá trị của các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp lớn toàn cầu.