Doanh nghiệp chủ động đổi mới
Với kinh nghiệm 57 năm làm trong lĩnh vực sản xuất chế biến chè với thị trường Trung Đông , châu Phi, Bắc Phi, bà Nguyễn Thị Loan - Giám đốc Công ty CP Đầu tư phát triển chè Tam Đường (Lai Châu) - nhận thấy, đây là thị trường rất tiềm năng. Để thâm nhập vào thị trường này, doanh nghiệp đã chủ động đổi mới dây chuyền sản xuất, đầu tư máy móc, trang thiết bị hiện đại và cải tiến mẫu mã; sản phẩm chè tuân thủ nghiêm ngặt quy trình sản xuất từ trồng chè, thu hái, bảo quản cho đến chế biến; đã đạt các bộ tiêu chuẩn Organic, Halal, GMP, Rainforest Alliance…
Hiện doanh nghiệp đang ký hợp đồng bao tiêu, liên kết với hơn 4.000 hộ nông dân, tương ứng với hơn 10.000 người nông dân tham gia trong chuỗi của doanh nghiệp với diện tích chè lên tới hơn 3.000ha. Các sản phẩm chè truyền thống của doanh nghiệp đã xuất khẩu đi các thị trường Trung Đông và Nam Á, cụ thể như Afghanistan, Pakistan, Thổ Nhĩ Kỳ… và được người tiêu dùng đón nhận tích cực.
Tuy nhiên, phía doanh nghiệp mong muốn có thể tiếp cận các thông tin về nhu cầu thị trường, đối tác khách hàng nhập khẩu để từ đó doanh nghiệp có thể định hình lại và tổ chức sản xuất, để các sản phẩm của doanh nghiệp nói riêng và của Việt Nam nói chúng có thể đi sâu vào thị trường đầy tiềm năng này. “Vấn đề quan trọng nhất vẫn là thâm canh để đảm bảo các yêu cầu về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật mà thị trường yêu cầu. Đây cũng là vấn đề khó khăn nhất. Bên cạnh đó, việc tiếp cận thông tin về nhu cầu thị trường để có thể định hướng sản xuất, đầu tư cơ sở hạ tầng, công nghệ máy móc để đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu”, bà Loan chia sẻ.
Sự vào cuộc của cơ quan tham tán, đại sứ quán
Gần một nửa trong số 15 quốc gia nhập khẩu chè hàng đầu thế giới đều thuộc khu vực Trung Đông, Bắc Phi và Nam Á. Người dân khu vực này có nhu cầu sử dụng chè lớn, tạo nên nhiều dư địa cho chè Việt Nam xuất khẩu chè vào các thị trường này.
Tuy nhiên, trong những năm vừa qua, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, tình hình xuất khẩu chè của Việt Nam sang khu vực Trung Đông, Bắc Phi và Nam Á còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng. Xét trong tổng kim ngạch nhập khẩu chè của các nước này, khả năng xuất khẩu của Việt Nam chiếm 4,1% tại Iraq, 1,6% tại Saudi Arabia và 1,5% tại UAE.
Ấn Độ vừa là thị trường tiêu thụ lớn vừa là thị trường xuất khẩu chính. Ông Bùi Trung Thướng - Tham tán, Trưởng Thương vụ Việt Nam tại Ấn Độ - nhận định, thị trường Ấn Độ nói riêng và thị trường Trung Đông nói chung không phải là thị trường khó tính. Yêu cầu về tiêu chuẩn thị trường không cao. Tuy nhiên, các doanh nghiệp xuất khẩu cần lưu ý yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm .
Đây cũng là khu vực đa sắc tộc, đa văn hóa, để thâm nhập vào thị trường Ấn Độ các doanh nghiệp cần lưu ý đến vấn đề yếu tố hồi giáo, nhãn mác sản phẩm phải đáp ứng tiêu chuẩn Halal. Văn hóa tiêu dùng ở các thị trường khác nhau, họ không sử dụng chè xanh mà sử dụng chè đen CTC. Chè không uống một mình mà kèm theo đó là đường, sữa,… hay hương vị. Đây là thời điểm để chúng ta phát triển thương hiệu chè. Tham dự triển lãm, các chương trình xúc tiến thương mại,… sẽ hỗ trợ chè Việt Nam có thâm nhập sâu hơn vào khu vực thị trường đầy tiềm năng này.
Afghanistan, Pakistan hiện là 2 thị trường nhập khẩu chè lớn nhất của Việt Nam. Ông Nguyễn Tiên Phong - Đại sứ Việt Nam tại Pakistan và kiêm nhiệm Afpakistan - chia sẻ, người dân nơi đây sử dụng chè hàng ngày. Tỷ trọng chè đen CTC đường dùng nhiều hơn so với chè xanh. Tuy nhiên, Việt Nam lại chủ yếu xuất khẩu chè xanh sang 2 thị trường này. Đây cũng là việc mà Hiệp hội chè Việt Nam cần phải cải thiện, nâng tỷ trọng sản xuất chè đen cũng là dư địa để tăng cường xuất khẩu và mở rộng giá trị xuất khẩu.
“Chè là đồ uống phổ biến. Đây cũng là 2 thị trường dễ tính, giá cả phải chăng đây là cơ hội và dư địa cho chúng ta có thể xuất khẩu vào thị trường này”, ông Nguyễn Tiên Phong cho biết.
Để xuất khẩu, ông Phong cho rằng, các doanh nghiệp sản xuất phải nhận diện thị hiếu thị trường, đa dạng hóa sản phẩm. Đẩy mạnh quảng bá thương hiệu sản phẩm, có bao bì đóng gói phù hợp với văn hóa tiêu dùng và đặc biệt tập trung vào sản phẩm theo tiêu chuẩn Halal chứ không chỉ đóng gói chè thô. “Một số lô chè Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Pakistan có nhuộm màu cho bắt mắt, pha ra có màu vàng và việc này có thể không hợp với thị hiếu của người tiêu dùng thị trường này”, ông Phong khuyến nghị.
Theo các chuyên gia, chè Việt Nam, đặc biệt là chè xanh thu hút ngày càng nhiều sự quan tâm của người tiêu dùng do mức thu nhập của người Trung Đông ngày càng tăng. Họ muốn sử dụng các sản phẩm giúp đảm bảo sức khỏe. Vì vậy, chè xanh đang dần dần có những vị trí nhất định trong giỏ hàng hóa tiêu dùng của người Trung Đông, Bắc Phi, Nam Á. Văn hóa uống chè cũng đang dần thay đổi. Đây cũng là cơ hội cho chè Việt Nam.
Với nỗ lực, sự hỗ trợ của cơ quan chức năng như các tham tán thương mại, các đại sứ quán,… trong việc cung cấp thông tin thị trường, kết nối doanh nghiệp Việt Nam chè Việt Nam được kỳ vọng sẽ có vị trí ngày càng lớn tại thị trường Trung Đông, Bắc Phi, Nam Á này.
“Chúng tôi mong muốn có thêm các thông tin, clip quảng bá, tờ rơi, hàng mẫu để có thể kết nối các doanh nghiệp. Sau khi trao đổi thông tin, hàng mẫu, trao đổi qua kết nối online doanh nghiệp có thể cử các đoàn doanh nghiệp sang thị trường này hoặc ngược lại để tìm hiểu thị trường. Đại sứ quán sẵn sàng là vai trò của người dẫn đường để hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc kết nối, giao lưu, trao đổi giữa các doanh nghiệp chè giữa hai nước”, ông Nguyễn Tiên phong chia sẻ.