Trước đại dịch, chỉ có khoảng 30% công ty sử dụng công nghệ để đo lường hiệu suất nhân viên. Nhưng đến cuối năm 2021, con số này đã tăng lên 60% và đến tháng 8/2022, theo New York Times, 80% doanh nghiệp tư nhân lớn ở Mỹ đang sử dụng các công nghệ tương tự.
Nhu cầu giám sát nhân viên tăng mạnh
Thị trường này tăng trưởng không phải điều khó hiểu.Trong những năm qua, vì tác động của đại dịch, xu hướng làm việc từ xa toàn phần hoặc bán phần phổ biến hơn bao giờ hết. Với hình thức này, các chủ doanh nghiệp luôn lo lắng về năng suất lao động của nhân viên. Khi đó, giải pháp để kiểm soát nhân viên, theo dõi người lao động từ xa là điều mà doanh nghiệp tìm kiếm.
Sự tăng trưởng của mảng công nghệ giám sát nhân viên cũng được thể hiện qua các quỹ đầu tư. Trong khi tình hình chung của đầu tư mạo hiểm giảm 53% trong quý III so với cùng kỳ năm trước, đầu tư cho mảng này lại tăng mạnh.
Năm 2020, tổng số tiền đầu tư cho hoạt động này là 180,5 triệu USD. Đến năm 2021, con số đã tăng vọt lên 243 triệu USD. Trong ba quý đầu năm nay, tổng số tiền đầu tư vào mảng kinh doanh này đã vượt 394 triệu USD, cao hơn 62% so với cả năm 2021.
Theo số liệu thị trường, nhiều công ty trong lĩnh vực này cũng ghi nhận tốc độ tăng trưởng chóng mặt.
Như ActivTrak, một công ty phần nền phân tích lực lượng lao động với hơn 77 triệu USD tiền gọi vốn. Gần đây, công ty này đã lọt vào top những doanh nghiệp phát triển nhanh nhất Bắc Mỹ trong ba năm liên tiếp, theo xếp hạng của Deloitte Technology. Một báo cáo cho thấy công ty này đã đạt mức tăng trưởng 485% trong ba năm qua.
Cái tên khác nổi bật không kém là Prodoscore với mức tăng trưởng doanh thu 300% trong ba năm qua. Hiện tại, số lượng nhân viên trên nền tảng này đã đạt mốc 20.000 người.
Theo chia sẻ của Prodoscore, công ty sử dụng công nghệ máy học và xử lý ngôn ngữ tự nhiên để cung cấp cho khách hàng - chủ doanh nghiệp - hiệu suất làm việc của nhân viên dưới dạng một số điểm đơn giản.
Mặt trái khi giám sát nhân viên
Sự trỗi dậy của mảng công nghệ giám sát nhân viên từ xa cũng đi kèm với các đợt sa thải và nỗi lo suy thoái trong thời gian gần đây.
Phó giáo sư Jessica Vitak từ Đại học Maryland cùng đồng nghiệp phân tích 645 người lao động làm việc từ xa ở Mỹ, chịu sự giám sát của các công nghệ. Kết quả cho thấy những người tham gia thường có xu hướng lo lắng khi công cụ thu thập dữ liệu và doanh nghiệp lại sử dụng dữ liệu để đưa ra những quyết định như thăng chức, đánh giá hiệu suất.
Hồi tháng 5, một cuộc khảo sát riêng của Morning Consult cũng cho thấy xấp xỉ một nửa số nhân viên ngành công nghệ sẽ nghỉ việc nếu doanh nghiệp sử dụng phần mềm giám sát để theo dõi năng suất, bất kể là theo dõi qua video, âm thanh hoặc thao tác gõ phím. Đồng thời, hơn một nửa số người được hỏi cho biết sẽ không làm việc ở những công ty sử dụng công nghệ để giám sát năng suất.
Theo phân tích của Vitak, các công nghệ này có cả điểm mạnh và điểm yếu. Điểm mạnh là chúng đưa ra dữ liệu nhiều hơn, giúp doanh nghiệp đưa ra các quyết định tốt hơn. Tuy nhiên, điểm yếu của công nghệ này là những rủi ro xã hội trong quá trình tổng hợp dữ liệu dài hạn. Như việc dữ liệu có thể bị sử dụng cho những mục đích khác xa ban đầu.
Điều cần lưu ý chính là không nên đặt niềm tin 100% vào dữ liệu, bởi việc đánh giá nhân viên giỏi không thể chỉ gói gọn trong một phương trình, thuật toán.
Nói cách khác, dữ liệu suy cho cùng cũng chỉ là dữ liệu. Điểm mấu chốt là chủ doanh nghiệp cần sử dụng dữ liệu một cách phù hợp, để không đưa ra những đánh giá sai lầm về nhân viên.