Theo số liệu Bộ Công Thương mới cập nhật, hiện cả nước có khoảng 5.000 doanh nghiệp chế biến tham gia cung cấp linh kiện phụ tùng cho nhóm ngành hàng ô tô, cơ khí.
Trong đó, 70% doanh nghiệp tham gia cung cấp cho các nhà sản xuất trong nước và 8% cung cấp cho nhà xuất khẩu và 17% là tham gia cung cấp cho cả hai.
Xét theo từng ngành hàng, 64% doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong ngành dệt may, da giày cung cấp cho thị trường trong nước (trong đó 3% cung cấp cho doanh nghiệp FDI), 9% xuất khẩu và 27% cung cấp cho cả hai thị trường.
Trong lĩnh vực cao su, nhựa, hoá chất, số doanh nghiệp cung cấp cho trường trong nước chiếm 52%, hoàn toàn cho xuất khẩu là 4%, 44% còn lại cung cấp cho cả hai thị trường.
Lĩnh vực điện tử có 44% doanh nghiệp cung cấp cho thị trường trong nước (trong đó 22% cung cấp hoàn toàn cho FDI), 16% cung cấp cho thị trường xuất khẩu và 40% số doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của ngành cung cấp cho cả thị trường trong nước và xuất khẩu.
Với ngành cơ khí, ô tô, 83% doanh nghiệp hoàn toàn cung cấp cho thị trường nội địa, chỉ có 3% doanh nghiệp có doanh thu hoàn toàn từ xuất khẩu và 14% doanh nghiệp có doanh thu từ cả hai thị trường.
Bộ Công Thương nhận định, nhìn một cách tổng quan, đến nay có khoảng 30% doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu. Điều này cho thấy sự kết nối giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp FDI chưa chặt chẽ.
Ông Phạm Tuấn Anh, Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp, Bộ Công Thương cho rằng mặc dù Chính phủ đã phối hợp với các tổ chức, doanh nghiệp triển khai các hoạt động tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa Việt Nam, tuy nhiên sự liên kết này còn lỏng lẻo.
Nguyên nhân của sự lỏng lẻo được đại diện Bộ Công Thương chỉ ra, do thực tế Việt Nam có ngành công nghiệp phát triển sau các nước khu vực 2-3 thế hệ, dung lượng thị trường nhỏ chưa đảm bảo quy mô công suất đối với sản phẩm công nghiệp để cạnh tranh về giá với thị trường khác.
Trong khi đó, dư địa để can thiệp bằng chính sách vào phát triển công nghiệp không còn nhiều do phải tuân thủ các cam kết quốc tế.
Ngoài ra, do tập quán kinh doanh của các doanh nghiệp toàn cầu thường sử dụng các doanh nghiệp đã từng cung ứng sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi sản xuất của họ hoặc các doanh nghiệp cùng quốc tịch, ít tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam trong việc tham gia chuỗi giá trị của các tập đoàn đa quốc gia.
Bên cạnh đó, nguồn lực xã hội chưa tập trung nhiều vào đầu tư sản xuất. Bởi khu vực sản xuất đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn dài hạn, trong khi nguồn lực xã hội đầu tư vào sản xuất rất hạn chế do thời gian thu hồi vốn chậm, lợi nhuận biên kém hấp dẫn so với đầu tư vào lĩnh vực khác như bất động sản, tài chính.
Nhìn từ góc độ doanh nghiệp và ngành thấy, nội lực của ngành công nghiệp nước ta còn hạn chế. Việt Nam chưa có doanh nghiệp đóng vai trò dẫn dắt mang tính lan tỏa trong ngành công nghiệp.
Trình độ doanh nghiệp và chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế. Công tác R&D (nghiên cứu và phát triển), phát triển sản phẩm mới chưa được quan tâm và thiếu nguồn vốn đầu tư.
Hơn nữa, trong công tác quản lý nhà nước, việc ban hành và bố trí các nguồn lực triển khai các chính sách hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ còn chưa hiệu quả do mâu thuẫn chồng chéo của các luật ngành khác.
Vì vậy, để ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam tham gia sâu hơn, nhiều hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, ông Phạm Tuấn Anh cho rằng, trong thời gian tới cần thúc đẩy tăng cường liên kết, nâng cao sự vững chắc trong chuỗi cung ứng cho những ngành sản xuất chủ lực của Việt Nam như dệt may, da giày, điện tử, công nghiệp chế biến nông sản…
Chính sách cấp bù lãi suất theo Nghị quyết 115 (Chính phủ ban hành năm 2020) về các giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ là chính sách được nhiều doanh nghiệp trông đợi nhất.
“Nghị quyết nêu rõ: các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ và các sản phẩm cơ khí trọng điểm thì được hỗ trợ cấp bù chênh lệch lãi suất. Dự kiến tối đa mức bù đến 5%. Đây là vấn đề thực sự rất cần thiết và quan trọng đối với các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam”, đại diện Cục Công nghiệp cho biết.
Các doanh nghiệp FDI vào Việt Nam đều được sự hỗ trợ rất lớn từ các tập đoàn mẹ hoặc các tổ chức tài chính của nước sở tại, lãi suất rất thấp. Trong khi đó, lãi suất trong nước của chúng ta rất cao. Nếu so sánh sự chênh lệch này, các doanh nghiệp Việt Nam đã thua ngay từ bước đầu tiên khi sử dụng vốn đầu tư để đầu tư dự án. Do đó, chính sách này được thực thi sẽ tạo cơ hội tốt cho doanh nghiệp vươn lên và cạnh tranh về giá.