FiinRatings vừa có báo cáo phân tích tình hình chậm trả trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam. Theo đó, tính đến ngày 17/3/2023, đã có 69 tổ chức phát hành (TCPH) có một hoặc nhiều hơn lô trái phiếu lưu hành đã không thể đáp ứng nghĩa vụ nợ với tổng giá trị 94.430 tỷ đồng, chiếm 8,15% giá trị trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) đang lưu hành. Cụ thể, trong đó có 65 TCPH vi phạm nghĩa vụ nợ và 4 TCPH có TPDN đến hạn nhưng đã được tái cơ cấu nợ.
Trong tổng số 69 TCPH chậm trả, có 43 TCPH là doanh nghiệp trong ngành bất động sản với tổng giá trị TPDN chậm trả nợ ở mức 78.900 tỷ đồng, chiếm 83,6% với tổng giá TPDN của các doanh nghiệp chậm trả nợ trái phiếu.
Theo FiinRatings, 69 TCPH trên hiện có tổng nợ vay 233.700 tỷ đồng tại 31/12/2022, trong đó tổng giá trị TPDN đang lưu hành ở mức 169.700 tỷ đồng và phần còn lại 64.000 tỷ là vay tín dụng ngân hàng và nợ khác.
Trái phiếu đã ở tình huống chậm trả chiếm 37% tổng giá trị TPDN đang lưu hành ở mức 169.717 tỷ đồng của các doanh nghiệp này. Phần trái phiếu còn lại chưa đến hạn thanh toán là 75.286 tỷ và có kỳ đáo hạn chủ yếu vào năm 2023 (ước tính 30.200 nghìn tỷ) và 2024 (ước tính 21.900 nghìn tỷ).
FiinRatings cho biết, ngành bất động sản là ngành có tỷ lệ nợ xấu trái phiếu ở mức 20,17% cao thứ hai sau ngành năng lượng. Tuy nhiên, ngành bất động sản có quy mô lưu hành lớn nhất ở mức 396.300 tỷ, chiếm 33,8% tổng giá trị lưu hành. Thực tế, trong tổng số 69 TCPH chậm trả nợ TPDN thì số các doanh nghiệp trong ngành bất động sản chiếm tới 62,3%.
Phân tích đặc điểm tín dụng của các TCPH phát sinh chậm trả TPDN, FiinRatings dựa trên số liệu từ báo cáo tài chính của 33 TCPH bất động sản chậm trả cho thấy đòn bẩy tài chính của các doanh nghiệp này tăng gấp 9,5 lần so với thời điểm cuối năm 2017. Tuy nhiên, tài sản hữu hình – thường là tài sản sinh lời của các công ty bất động sản có mức tăng khiêm tốn từ 25.000 tỷ (2017) lên 33.000 tỷ đồng (2021).
Trong khi đó, khoản phải thu (thường đến từ hợp đồng cho vay các bên liên quan) và khoản đầu tư dài hạn (thường là khoản đầu tư vào các công ty con và liên kết) lại tăng gấp hơn 4 lần. Vì dòng tiền không được tập trung đầu tư vào tài sản sinh lời nên lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh chính không tăng trưởng tương xứng với nợ vay. Khả năng trả nợ của các doanh nghiệp này giảm mạnh do EBITDA chỉ tăng 4 lần trong khi nợ vay tăng 15 lần.
Trong một thời gian dài, nợ vay trên tương quan với lợi nhuận EBITDA (lợi nhuận không gần với dòng tiền tạo ra mới trong kỳ) ở mức rất cao, lên tới 30,5 vào năm 2020 lần và 23,5 lần vào năm 2021. Đây là mức quá cao so với kỳ hạn bình quân của một trái phiếu và các nghĩa vụ nợ của các doanh nghiệp này.