Giữ nguyên quy định về độ tuổi hưởng lương hưu
Góp ý dự thảo, nhiều ý kiến đề nghị quy định điều kiện về tuổi hưởng lương hưu đối với giáo viên mầm non thấp hơn tối đa 5 năm so với tuổi quy định. Đồng thời, đề nghị bổ sung quy định người lao động có đủ 30 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên đối với nữ, 35 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên đối với nam mà có yêu cầu, thì được hưởng lương hưu ở tuổi thấp hơn tối đa 5 tuổi so với tuổi quy định.
Ngoài ra, có ý kiến đề nghị nghiên cứu sửa đổi mở thêm về chế độ nghỉ hưu và mức hưởng lương theo hướng không khống chế tuổi nghỉ hưu (không quy định điều kiện về tuổi), lương hưu được tính theo số năm tham gia đóng bảo hiểm xã hội.
Trước các ý kiến đề xuất này, cơ quan chủ trì đề nghị được giữ như dự thảo. Theo đó, người lao động khi nghỉ việc có thời gian đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 15 năm trở lên thì được hưởng lương hưu nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
Đủ 61 tuổi 3 tháng đối với lao động nam và đủ 56 tuổi 8 tháng đối với lao động nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 3 tháng đối với lao động nam cho đến khi đủ 62 tuổi vào năm 2028, và cứ mỗi năm tăng thêm 4 tháng đối với lao động nữ cho đến khi đủ 60 tuổi vào năm 2035.
Người lao động có tuổi thấp hơn tối đa 5 tuổi so với tuổi quy định và có tổng thời gian đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 15 năm trở lên khi làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành, hoặc làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1/1/2021.
Người lao động có tuổi thấp hơn tối đa 10 tuổi so với tuổi quy định, và có đủ 15 năm làm công việc khai thác than trong hầm lò theo quy định của Chính phủ.
Người bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao.
Điều kiện về tuổi hưởng lương hưu đối với một số trường hợp đặc biệt theo quy định của Chính phủ.
Độ tuổi và điều kiện hưởng lương hưu như trên dự kiến được áp dụng từ năm 2025 khi Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) được thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/1/2025.
Lý giải về việc giữ nguyên độ tuổi hưởng lương hưu như dự thảo, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho rằng, chế độ hưu trí hay còn được gọi là chế độ bảo hiểm tuổi già là một trong các chế độ của chính sách bảo hiểm xã hội, nhằm đảm bảo nguồn thu nhập hàng tháng cho người lao động khi về già (đến tuổi nghỉ hưu).
Theo nguyên lý và thông lệ các nước khi xây dựng chế độ hưu trí đều quy định người lao động để được hưởng lương hưu hàng tháng thì phải đáp ứng đồng thời hai điều kiện về tuổi đời, và điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội.
Quy định này đảm bảo sự hài hòa, cân đối giữa thời gian đóng góp và thời gian thụ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội của người lao động, từ đó đảm bảo an toàn và cân đối quỹ bảo hiểm xã hội trong dài hạn.
Tiếp tục tăng gtuooir nghỉ hưu theo lộ trình
Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, vấn đề tuổi nghỉ hưu đã được Trung ương thảo luận trong Đề án cải cách chính sách bảo hiểm xã hội tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII và thống nhất thông qua Nghị quyết số 28/NQ-TW về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.
Thể chế hóa chủ trương tăng tuổi nghỉ hưu tại Nghị quyết số 28/NQ-TW, Quốc hội đã thống nhất ban hành Bộ luật Lao động năm 2019, trong đó nội dung tuổi nghỉ hưu, điều kiện về tuổi hưởng lương hưu được quy định tại Điều 169 và Điều 219.
“Trong quá trình nghiên cứu, xây dựng Bộ luật Lao động năm 2019, vấn đề tuổi nghỉ hưu đã được trao đổi, thảo luận và đánh giá một cách kỹ lưỡng, tổng thể các mặt có liên quan. Chính vì vậy, Bộ luật Lao động năm 2019 quy định việc điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu, hay điều kiện về tuổi hưởng lương hưu của người lao động không thực hiện tăng ngay lên 62 tuổi đối với nam, và 60 tuổi đối với nữ, mà được điều chỉnh theo lộ trình mỗi năm chỉ tăng thêm 3 tháng đối với lao động nam và 4 tháng đối với lao động nữ”, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội nêu rõ.
Bên cạnh đó, đối với những người lao động làm nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, hoặc những người lao động sức khỏe yếu (bị suy giảm khả năng lao động), thì cũng có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn so với người làm việc trong điều kiện lao động bình thường (nghỉ hưu sớm hơn tối đa 5 tuổi hoặc 10 tuổi tùy từng trường hợp).
“Chính vì vậy, quan điểm chung trong lần sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội lần này là kế thừa từ quy định về tuổi nghỉ hưu của Bộ luật Lao động năm 2019 để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất”, cơ quan chủ trì soạn thảo nhấn mạnh.
Căn cứ theo quy định của Bộ luật Lao động, năm 2023, người lao động tham gia bảo hiểm xã hội (bắt buộc, tự nguyện) được hưởng lương hưu khi có đủ 2 điều kiện là đóng đủ 20 năm bảo hiểm xã hội trở lên; đủ 60 tuổi 9 tháng đối với nam và 56 tuổi đối với nữ.
Theo số liệu thống kê, tính đến cuối 2022, Việt Nam có khoảng 14,4 triệu người sau độ tuổi nghỉ hưu (từ 55 tuổi trở lên đối với nữ; từ 60 tuổi trở lên đối với nam). Tổng số người hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng, trợ cấp hưu trí xã hội hiện là hơn 5,1 triệu người, chiếm khoảng 35% tổng số người sau độ tuổi nghỉ hưu.
Trong đó, số người hưởng lương hưu khoảng 2,7 triệu người; số người hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng khoảng 0,63 triệu người; số người hưởng trợ cấp hưu trí xã hội (trợ cấp người cao tuổi) hơn 1,8 triệu người. Như vậy, vẫn còn khoảng 9,3 triệu người sau độ tuổi nghỉ hưu (chiếm 65%) chưa thuộc diện bao phủ của hệ thống bảo hiểm xã hội.