Tại dự thảo luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi), Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đề xuất 2 phương án quy định tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương cho người sử dụng lao động (khu vực doanh nghiệp) quyết định.
Phương án 1:Tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội là tiền lương tháng bao gồm mức lương và phụ cấp lương, các khoản bổ sung khác được xác định bằng mức tiền cụ thể ghi trong hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật.
Phương án 2:Tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội là tiền lương tháng bao gồm mức lương và phụ cấp lương, các khoản bổ sung theo quy định của pháp luật lao động.
Tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội này không bao gồm tiền thưởng, các khoản hỗ trợ và trợ cấp khác không liên quan đến thực hiện công việc hoặc chức danh trong hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật lao động.
Chính phủ quy định việc điều chỉnh tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp nhất, tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc cao nhất trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế.
Trong khi đó, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định, đối với người lao động đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội là mức lương và phụ cấp lương theo quy định của pháp luật lao động. Từ ngày 1/1/2018 trở đi, tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội là mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật về lao động.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đánh giá, sau năm 2016, tức thời điểm Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 chính thức có hiệu lực, mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội tăng không đáng kể, chỉ tăng theo sự điều chỉnh mức tăng tiền lương tối thiểu vùng hằng năm.
Theo phản ánh của các địa phương, mặc dù Luật Bảo hiểm xã hội 2014 và các văn bản quy phạm pháp luật đã hướng dẫn chi tiết mức tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội nhưng ở một số doanh nghiệp vẫn tồn tại 3 loại thu nhập.
Thu nhập này bao gồm: Thu nhập để làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội; thu nhập để doanh nghiệp thực hiện quyết toán và thu nhập thực tế chi trả cho người lao động.
Đáng chú ý là thu nhập để làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội luôn ở mức thấp nhất (bằng mức lương tối thiểu vùng, cộng 7% đối với lao động đã qua đào tạo nghề và cộng thêm 3% hoặc 7% đối với lao động làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm). Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến mức hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, đặc biệt là mức hưởng lương hưu khi về già.
Trao đổi về vấn đề này, ông Lê Đình Quảng, Phó trưởng Ban Chính sách – Pháp luật (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) thừa nhận, mặc dù pháp luật hiện hành quy định rõ tiền lương đóng bảo hiểm xã hội là mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác song thực tế mức đóng ở các doanh nghiệp chỉ là trên nền tiền lương tối thiểu, nên nhìn chung mức đóng khá thấp.
Theo ông Quảng, tiến tới đây khi sửa đổi luật Bảo hiểm xã hội, Nhà nước cần xem xét bổ sung quy định về căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của khu vực doanh nghiệp tiến tới ít nhất bằng khoảng 60% tổng tiền lương và các khoản thu nhập khác có tính chất lương của người lao động.
"Tức là chúng ta phải dần dần nâng mức đóng lên, bởi vì chúng tôi được biết theo nghiên cứu của các nhà khoa học, cũng như chuyên gia của Tổ chức Lao động quốc tế thì tỷ lệ hưởng lương hưu so với mức đóng của Việt Nam là khá cao so với các nước khác. Song vấn đề là mức đóng của chúng ta khá thấp", ông Quảng lí giải.
Nói về việc dù pháp luật đã quy định rõ như vậy, nhưng các doanh nghiệp hầu như không thực hiện đủ, để khắc phục tình trạng này, ông Quảng cho rằng, dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) cần tiếp tục nghiên cứu để bổ sung thêm về vấn đề này.
“Một mặt cần tiếp tục hoàn thiện quy định về mức sàn tiền lương đóng bảo hiểm xã hội, nhưng đồng thời cần thực thi nghiêm. Nghĩa là sau khi luật được ban hành phải tăng cường thực thi để các doanh nghiệp đóng đúng. Theo nguyên lý, đóng thiếu cũng là vi phạm. Như vậy, tóm lại là cần làm tốt cả hai khâu, hoàn thiện và thực thi pháp luật cho nghiêm mới đảm bảo quyền lợi của người lao động”, ông Quảng nhấn mạnh.