Áp lực nới room tín dụng đang mạnh, Ngân hàng Nhà nước có thể phải linh hoạt hơn trong việc mở room, theo quan điểm vừa phát đi của Chứng khoán Rồng Việt - VDSC.
Tăng trưởng tín dụng cả năm có thể đạt 16%
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tăng trưởng tín dụng tính đến cuối tháng 6/2022 đạt 9,4% so với đầu năm, cao hơn mức tăng 6,4% của cùng kỳ năm trước. Diễn biến theo tháng cho thấy tín dụng tăng tốc khá mạnh cho đến cuối tháng 6, nhưng sau đó đã chững lại đáng kể do Ngân hàng Nhà nước chưa cấp room tín dụng.
Tính đến 15/08/2022, tín dụng tăng 9,6%, trong gần 1 tháng rưỡi, tín dụng chỉ tăng thêm 0,3 điểm %, là mức khá thấp so với mức tăng bình quân 1,6%/tháng trong nửa đầu năm. Vào cuối tháng 7/2022, Ngân hàng Nhà nước cho biết vẫn giữ mục tiêu tăng trưởng tín dụng 14%, mức tăng so với cùng kỳ tính đến cuối tháng 6 đã là 17%.
Trên cơ sở định hướng của Ngân hàng Nhà nước, dư địa tín dụng từ nay đến cuối năm chỉ còn khoảng 457.450 tỷ đồng, nghĩa là chưa đến một phần hai nhu cầu tín dụng tính đến 15/8.
Từ năm 2013 đến nay, tăng trưởng tín dụng thường tăng cao hơn trong nửa cuối năm so với nửa đầu năm, chỉ trừ năm 2019. Điều này phù hợp với quy luật nhu cầu vốn mạnh hơn trong nửa cuối năm, tuy nhiên, năm 2022 có một đặc thù là năm phục hồi sau đại dịch, do đó, nhu cầu vốn đã tăng tốc mạnh trong giai đoạn đầu năm.
Trong 7T2022, số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động tăng lần lượt 17,9% và 49,7% so với cùng kỳ. Điều này hàm ý rằng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp quay trở lại hoạt động và đầu tư mới vẫn còn khá lớn.
Xét theo lĩnh vực cho vay, hoạt động thương mại và hoạt động khác đóng góp hơn 70% vào tăng trưởng tín dụng toàn nền kinh tế trong nửa đầu năm. Riêng tín dụng vào lĩnh vực bất động sản tăng 14,1% so với cuối năm 2021, trong đó, tín dụng đối với bất động sản kinh doanh chỉ tăng 8,2% nhưng tín dụng bất động sản phục vụ mục đích sử dụng tăng đến 17,2%, cao hơn đáng kể so với mức tăng tín dụng chung là 9,4%.
Đối với các lĩnh vực còn lại thì nhu cầu vay cho hoạt động công nghiệp tăng 7,6% so với đầu năm, thấp hơn mức tăng 8,9% của cùng kỳ năm trước. Tín dụng vào các ngành nông nghiệp, xây dựng và vận tải ghi nhận sự phục hồi, lần lượt tăng 7,5%, 7,1% và 3,8% so với đầu năm.
Diễn biến này cho thấy nhu cầu vay mua bất động sản đang dẫn dắt dòng chảy tín dụng, trong khi đó, cho vay đến các nhà phát triển bất động sản bị hạn chế bởi chính sách. Nhu cầu vốn cho hoạt động thương mại trở lại mạnh mẽ, các lĩnh vực còn lại có ghi nhận sự phục hồi về nhu cầu tín dụng nhưng chậm hơn.
Dựa vào bức tranh tín dụng chung và triển vọng phục hồi của nền kinh tế, chúng tôi đánh giá nhu cầu tín dụng trong nền kinh tế vẫn sẽ ở mức cao, việc siết room tín dụng trong phần lớn thời gian của quý 3 sẽ phần nào ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh và mở rộng của các doanh nghiệp trong thời gian còn lại của năm.
Điều này cũng ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện gói hỗ trợ lãi suất 2% trong chương trình phục hồi phát triển kinh tế khi sau 3 tháng thực hiện, số tiền lãi đã hỗ trợ chỉ đạt 1,02 tỷ đồng. "Sắp tới, chúng tôi kỳ vọng Ngân hàng Nhà nước có thể điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng tín dụng cho phù hợp hơn với nhu cầu thực tế, tăng trưởng tín dụng cả năm ước có thể đạt 16%", VDSC nhấn mạnh.
Lãi suất cho vay tăng mạnh cuối năm
Trong tháng 8, các Ngân hàng Thương mại tiếp tục điều chỉnh tăng lãi suất huy động từ 0,1-0,3 điểm %, cuộc đua tăng lãi suất để huy động tiền gửi có thêm sự tham gia của nhóm Ngân hàng Thương mại CP quốc doanh.
Mặc dù lãi suất huy động tăng cao nhưng huy động vốn vẫn lệch pha khá xa so với tăng trưởng tín dụng, tính đến cuối tháng 6/2022, tăng trưởng huy động vốn chỉ đạt 4,8% so với đầu năm. Tăng trưởng cung tiền cũng rất khiêm tốn, chỉ tăng 3,8% so với đầu năm.
Sự chênh lệch giữa nhu cầu tín dụng và tăng trưởng tiền gửi sẽ là yếu tố tiếp tục thúc đẩy đà tăng hiện có của lãi suất huy động. Điều này song hành với việc siết room tín dụng có thể đẩy lãi suất cho vay tăng mạnh hơn trong nửa cuối năm.
Từ cuối tháng 6 đến nay, Ngân hàng Nhà nước vẫn sử dụng đều đặn công cụ trên thị trường mở để điều tiết thanh khoản tiền đồng trong hệ thống, từ đó phần nào giảm bớt áp lực lên tỷ giá.
Hiện tại, quan sát cho thấy xu hướng chủ đạo vẫn là hút ròng, và VDSC phán đoán hướng điều tiết thanh khoản sẽ đảm bảo lãi suất cho vay tiền đồng trên thị trường liên ngân hàng dao động trong một biên độ cho phép, có thể từ 3,5-4,5%/năm. Nghiệp vụ thị trường mở có thể được xem là công cụ chính sách tiền tệ hiệu quả để điều tiết cung-cầu vốn ngắn hạn, điều này mang ý nghĩa ổn định tỷ giá và kiểm soát lạm phát trong bối cảnh hiện tại.
Tuy nhiên, câu hỏi khó đặt ra là mức cung tiền mục tiêu bao nhiêu là phù hợp và mức độ chấp nhận tiền đồng phá giá trong phạm vi cho phép là bao nhiêu để cân đối được với chi phí bỏ ra. Khả năng dự báo, linh hoạt với diễn biến thị trường, giảm bớt sự lệch pha không cần thiết trong điều hành chính sách tiền tệ sẽ là những vấn đề Ngân hàng Nhà nước có thể sẽ cần cân nhắc trong thời gian tới.