Nguy cơ đổ vỡ?
Quý I/2023 được xem là thấp điểm của các khoản nợ đáo hạn đối với Công ty Cổ phần Tập đoàn Đầu tư địa ốc Nova (Novaland - NVL). Tuy nhiên tập đoàn đã cho thấy sự khó khăn trong việc xoay dòng tiền để trả nợ.
Theo đó, NVL đã không thể thanh toán các khoản nợ cả gốc và lãi đến hạn lô trái phiếu phát hành thông qua PSI mã NVLH2123009 giá trị 1.000tỷ VND.
Trong khi đó áp lực nợ đáo hạn là rất lớn trong quý 2 và quý 3/2023. Do đó nếu không đổ vỡ thời điểm này thì cũng khó “tồn tại” ở 2 quý sau nếu không có sự cải thiện mạnh về dòng tiền.
Như ban lãnh đạo NVL chia sẻ thì khoảng hơn 10.000 tỷ đồng tiền gửi của NVL tại các NHTM (đang bị phong tỏa) sẽ đủ điều kiện để giải toả khi Novaland hoàn thiện một số thủ tục pháp lý và kịch bản tốt sẽ là NVL sớm giải quyết được vấn đề pháp lý và có tiền để thanh toán các khoản nợ.
Tuy nhiên, nhóm phân tích từ CTCP FIDT đánh giá, khoản tiền này vẫn là chưa đủ để doanh nghiệp giải quyết các khoản nợ trong năm nay nhất là trong bối cảnh dòng tiền kinh doanh được dự phóng sẽ rất xấu khi:
Các sản phẩm của NVL thuộc phân khúc cao cấp, nhu cầu thực thấp rất nhạy cảm với môi trường lãi suất cao;
Tình trạng cắt lỗ do lãi suất tăng và hết ân hạn lãi có thể khiến làn sóng “cắt lỗ” hàng loạt tại các dự án và không có dòng tiền về nhà phát triển dự án ở đây là Nova, chưa kể ảnh hưởng tới niềm tin người tiêu dùng trong tương lai.
Theo CTCP FIDT, kịch bản xấu hơn là các trái phiếu của NVL đồng loạt bị vỡ nợ và các khoản tín dụng ngân hàng bị giảm chất lượng về các nhóm nợ xấu hơn sẽ khiến việc huy động vốn cho hoạt động càng trở nên khó khăn hơn
Tác động lên bất động sản và ngân hàng như thế nào
Tính đến ngày 23/02/2023, tổng dư nợ tín dụng và trái phiếu của nhóm Novaland ước ở mức 57.6 nghìn tỷ VND, trong đó dư nợ ngắn hạn 26.7 nghìn tỷ và dài hạn 30.9 nghìn tỷ VND.
Hiện tại, lô trái phiếu phát hành thông qua PSI mã NVLH2123009 giá trị 1.000 tỷ VND, Novaland đã không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán, do đó có thể xảy ra trường hợp cross – default (vỡ nợ chéo) các trái phiếu NVL đã phát hành và suy giảm chất lượng nợ của Novaland tại các ngân hàng.
Theo quy định thì tất cả các khoản tín dụng tại các NHTM trong hệ thống đối với 1 chủ thể sẽ được xếp vào 1 nhóm nợ cao nhất theo phân loại nợ tại tất cả các NHTM. Theo đó, một khoản tín dụng của NVL bị xếp hạng xấu đi tại 1 ngân hàng sẽ buộc hệ thống NHTM chuyển toàn bộ tín dụng đang cấp cho NVL vào nhóm xấu nhất đó.
Với việc không trả được lô NVLH2123009, tình huống xấu là tất cả dư nợ tín dụng trên sẽ có nguy cơ cao chuyển sang nhóm nợ xấu, cụ thể là nhóm 3. Qua đó, nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể tăng thêm hơn 40.000 tỷ VND.
Tuy nhiên, CTCP FIDT cho rằng, dư nợ tập trung chủ yếu vào một số ngân hàng (MBB, VPB, PvcomBank) chứ không phân bổ đều trong hệ thống. Do đó, mức độ ảnh hưởng từng Ngân hàng là khác nhau.
Như vậy, việc Novaland mất khả năng thanh toán nợ sẽ dẫn đến vấn đề suy giảm chất lượng nợ trong hệ thống ngân hàng dẫn đến các ngân hàng liên quan phải tăng trích lập dự phòng rủi ro. Do đó KQKD của nhóm ngân hàng nhiều khả năng sẽ suy giảm trong năm 2023.
Nhận định về “sức khoẻ” của NVL trong thời gian tới, theo CTCP FIDT, việc NVL có thể hoàn thành nghĩa vụ trả nợ đúng hạn là khá bất khả thi trong bối cảnh hiện tại khi mà doanh nghiệp khó có thể xoay dòng tiền từ nguồn mới cộng thêm dòng tiền kinh doanh được dự phóng sẽ tiêu cực trong năm nay. Điều này dẫn đến hậu quả rất xấu cho tập đoàn cũng như đem đến rủi ro hệ thống không nhỏ cho thị trường BĐS cũng như ngân hàng nói chung.
Cụ thể, các khách hàng đã mua sản phẩm của NVL không thể nhận bàn giao nhà đúng tiến độ mà vẫn phải trả lãi vay ngân hàng.
Các trái chủ không nhận được khoản thanh toán đúng thời hạn hoặc thậm chí phải giải quyết bằng việc giải chấp tài sản thế chấp.
Hơn nữa sự kiện này sẽ tác động tiêu cực đến tâm lý khách hàng vay mua BĐS không chỉ của Novaland mà còn của các đơn vị phát triển BĐS khác (chưa kể thời gian ân hạn lãi suất cho người mua vay BĐS sẽ hết hạn) dẫn đến việc chủ động không thanh toán hoặc không đủ khả năng thanh toán của khách vay. Việc này ảnh hưởng rất tiêu cực lên hệ thống ngân hàng và toàn nền kinh tế.