Theo đó, cả sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới đều giảm tháng thứ hai liên tiếp. Điều này dẫn đến việc các công ty đã cắt giảm việc làm và hoạt động mua hàng. Ngoài ra, áp lực chi phí tiếp tục giảm, từ đó giúp các công ty giảm giá bán hàng của họ để thúc đẩy nhu cầu.
Kết quả, Chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng - Manufacturing Purchasing Managers' Index™ (PMI®) - ngành sản xuất Việt Nam của S&P Global vẫn nằm dưới ngưỡng 50 điểm trong tháng 4, khi giảm về mức 46,7 so với 47,7 điểm của tháng 3.
“Chỉ số cho thấy các điều kiện kinh doanh giảm lần thứ năm trong sáu tháng qua, và lần giảm này là mạnh nhất trong năm tính đến thời điểm này”, báo cáo đánh giá.
Sản lượng ngành sản xuất giảm tháng thứ hai liên tiếp với tốc độ giảm nhanh hơn so với tháng 3/2023. Nguyên do bởi các công ty gặp khó khăn trong việc thu hút đơn đặt hàng mới trong bối cảnh nhu cầu yếu.
Cụ thể, những khó khăn trong việc thu hút đơn đặt hàng mới thể hiện ở việc cả tổng số lượng đơn đặt mới và số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới trong đầu quý 2/2023 tiếp tục giảm. Tốc độ giảm tổng số lượng đơn đặt hàng mới đã nhanh hơn so với kỳ khảo sát trước, trong khi số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu giảm với tốc độ chậm hơn.
Số lượng đơn đặt hàng mới giảm cho phép các công ty có thể tiếp tục giải quyết lượng công việc tồn đọng khiến chỉ số này giảm tháng thứ tư liên tiếp. Trong khi đó, tồn kho hàng thành phẩm tăng với mức độ lớn nhất trong thời gian hai năm.
Các nhà sản xuất tiếp tục giảm số lượng nhân viên do tình trạng nghỉ việc không có người thay thế và việc cắt giảm việc làm do giảm khối lượng công việc. Hơn nữa, tốc độ giảm là mạnh nhất trong thời gian 1,5 năm trở lại đây.
Các công ty cũng giảm mua hàng hóa đầu vào trong tháng 4, và đây là lần giảm thứ hai liên tiếp. Nhu cầu hàng hóa đầu vào giảm đã giúp thời gian giao hàng trung bình rút ngắn lần thứ tư liên tiếp. Một số công ty cũng cho biết hoạt động vận tải cải thiện đã giúp nâng cao hiệu suất hoạt động của người bán hàng.
Với hoạt động mua hàng hóa đầu vào giảm, tồn kho hàng mua đã giảm lần thứ tư liên tiếp. Tuy nhiên, kỳ vọng tích cực về tương lai đã khuyến khích một số công ty tăng thêm hàng tồn kho, từ đó tốc độ giảm tổng thể chỉ là nhẹ.
"Tâm lý tích cực phản ánh hy vọng rằng tình trạng nhu cầu yếu kém hiện nay sẽ chỉ là tạm thời, và việc phục hồi sẽ diễn ra trong năm tới. Mặc dù vậy, mức độ lạc quan là thấp nhất trong năm tính đến thời điểm này", báo cáo đánh giá.
Báo cáo cho biết, giá nguyên vật liệu giảm đã khiến tốc độ tăng chi phí đầu vào trong tháng 4 chậm lại tháng thứ hai liên tiếp. Đây là tốc độ yếu nhất trong thời kỳ tăng kéo dài 35 tháng hiện nay. Ở những nơi chi phí đầu vào tăng, các công ty tham gia khảo sát cho rằng việc tăng giá là xuất phát từ mặt hàng nhiên liệu và dầu.
Tình trạng giảm áp lực chi phí kết hợp với tình hình nhu cầu yếu đã khiến giá cả đầu ra giảm, từ đó kết thúc thời kỳ tăng giá kéo dài ba tháng. Theo đó, giá bán hàng giảm ở tất cả các lĩnh vực hàng hóa tiêu dùng, hàng hóa trung gian và hàng hóa đầu tư cơ bản.
Nhận định về PMI của Việt Nam, ông Andrew Harker, Giám đốc Kinh tế tại S&P Global Market Intelligence, cho hay: “Ngành sản xuất của Việt Nam dường như đang trải qua một giai đoạn trì trệ khi các công ty gặp khó khăn trong việc tìm kiếm đơn đặt hàng mới. Song, các công ty vẫn lạc quan rằng sản lượng sẽ tăng trong thời gian một năm tới, mặc dù tâm lý kinh doanh đã giảm khi số lượng đơn đặt hàng mới đã giảm trong những tháng gần đây"
Vị chuyên gia cho biết thêm, các nhà sản xuất đã bắt đầu hạ giá bán hàng để cố gắng kích thích nhu cầu, và áp lực chi phí giảm đã giúp họ giảm giá dễ dàng hơn. Trên thực tế, giá cả đầu vào đã tăng với tốc độ chậm nhất trong gần ba năm.