Ngày 29/9/2022, tại Hà Nội, với sự hỗ trợ của Đại sứ quán Na Uy tại Hà Nội, Tổ chức nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp Na Uy (SINTEF) phối hợp với Hiệp hội Xi măng Việt Nam (VNCA) tổ chức Hội thảo “Đồng xử lý các nhiên liệu thay thế và nguyên liệu thô trong ngành xi măng tại Việt Nam”.
Hội thảo nhằm mục đích chia sẻ kinh nghiệm quốc tế về đồng xử lý chất thải trong ngành công nghiệp xi măng, cũng như các kết quả của cuộc trình diễn gần đây sử dụng chất thải nhựa không thể tái chế tại nhà máy INSEE ở Hòn Chông, Kiên Giang, từ đó thảo luận về tiềm năng đồng xử lý trong tương lai của ngành xi măng Việt Nam.
Tương lai của ngành xi măng Việt Nam
Phát biểu tại hội thảo, Phó Đại sứ Na Uy Mette Møglestue cho biết Na Uy và Việt Nam, cũng như các thành viên tham gia Thỏa thuận Paris, đều cam kết mạnh mẽ trong việc chống biến đổi khí hậu và thực hiện các Đóng góp Quốc gia tự quyết định (NDC) nhằm giảm phát thải Khí nhà kính (GhG). Để đạt mục tiêu này cần sự tham gia của nhiều lĩnh vực.
Chính phủ Na Uy đánh giá cao vai trò quan trọng của các viện nghiên cứu, khu vực tư nhân, các tổ chức phi chính phủ và các ngành công nghiệp trong quá trình này. Kết quả nghiên cứu của SINTEF trong việc sử dụng chất thải nhựa không thể tái chế làm nhiên liệu thay thế cho lò nung xi măng đã được chứng minh thành công và có thể được nhân rộng ở Việt Nam.
“Thông qua Dự án Biến rác thải nhựa trên đại dương thành cơ hội trong nền kinh tế tuần hoàn (Dự án OPTOCE) do Chính phủ Na Uy tài trợ và đang được thực hiện tại 5 quốc gia Châu Á trong đó có Việt Nam, chúng tôi hy vọng Na Uy có thể giúp ngành xi măng Việt Nam nâng cao năng lực xử lý chất thải nhựa không thể tái chế và góp phần thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 của Việt Nam”, bà Mette Møglestue chia sẻ.
Tiến sĩ - nhà khoa học Kåre Helge Karstensen của SINTEF, người đứng đầu Dự án OPTOCE cho biết ngành công nghiệp xi măng hiện đang sử dụng khối lượng lớn than và các nguyên liệu thô khác. Tuy nhiên, chúng ta có thể thay thế một phần hoặc toàn bộ lượng nhiên liệu này bằng chất thải nhựa không thể tái chế.
“Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, việc đồng xử lý chất thải nhựa không thể tái chế làm chất thay thế nhiên liệu trong các lò nung xi măng không làm tăng phát thải dioxin trong khi vẫn tuân thủ các giá trị giới hạn quốc tế nghiêm ngặt nhất. Việc trình diễn thành công phương thức này tại nhà máy INSEE Việt Nam gửi đi một thông điệp hy vọng về tương lai của ngành xi măng Việt Nam” TS. Kåre Helge Karstensen nhấn mạnh.
Đồng xử lý trong lò nung xi măng có thể cải thiện việc quản lý chất thải nhựa không thể tái chế ở Việt Nam. Giải pháp này làm giảm tiêu thụ than trong ngành công nghiệp xi măng đồng thời giảm nhu cầu xây dựng các lò đốt phát điện đắt tiền (biến chất thải thành năng lượng). Quan trọng hơn, ngành công nghiệp xi măng nói chung có thể đóng một vai trò quan trọng trong giảm lượng phát thải GhG và ngăn chặn chất thải nhựa đổ vào đại dương.
Vẫn còn nhiều thách thức
Mặc dù đồng xử lý đang được áp dụng rất phổ biến ở châu Âu và Na Uy, nhưng giải pháp này còn chưa được áp dụng rộng rãi tại Việt Nam, chỉ có một số ít các nhà máy xi măng hiện đang thực hiện đồng xử lý chất thải.
Đại diện Hiệp hội Xi măng Việt Nam, PGS.TS. Lương Đức Long cho biết Việt Nam có 82 lò nung clanhke đang hoạt động, mỗi năm tiêu thụ trên 10 triệu tấn than antraxit. Hiện nay tỉ lệ sử dụng nhiên liệu thay thế trong toàn ngành rất thấp. Chính phủ Việt Nam có chủ trương tăng lượng sử dụng nhiên liệu thay thế lên mức 15% từ nay đến 2030 và 30% sau năm 2030. Như vậy, tiềm năng đồng xử lý chất thải, trong đó có nhựa không tái chế được, trong lò nung xi măng ở Việt Nam là rất lớn.
Ông Bruno Fux, Giám đốc Ecocycle & Sustainability của công ty INSEE Ecocycle cho biết: Ưu tiên hàng đầu của chúng tôi là không gây hại cho con người và môi trường. Vì vậy, kinh nghiệm chuyên môn là cần thiết, đặc biệt là khi xử lý chất thải nguy hại. Đồng xử lý không phải là một khái niệm mới nhưng ở Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn sơ khai.
“Đây là cơ hội lớn cho ngành công nghiệp xi măng để trở thành một nhà cung cấp giải pháp quan trọng cho các chất thải không thể tái chế trong một cơ sở hạ tầng quản lý chất thải chưa phát triển. Cùng nhau, chúng ta có thể giảm thiểu việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch như than đá và góp phần xây dựng một Việt Nam xanh và sạch hơn”, ông Bruno Fux chia sẻ.
Tuy nhiên, hiện vẫn còn một số thách thức chẳng hạn như: các doanh nghiệp gặp khó khăn về nguồn vốn đầu tư cho đồng xử lý; ở Việt Nam, rất ít/chưa có đơn vị chuyên thực hiện việc thu gom, xử lý sơ bộ chất thải và cung cấp đến nhà máy xi măng; một số bất cập về thủ tục pháp lý xác nhận các nhà máy xi măng áp dụng đồng xử lý là cơ sở xử lý chất thải; hoặc thiếu các chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với các doanh nghiệp xi măng áp dụng phương pháp này cũng như các doanh nghiệp thu gom, sơ chế chất thải trong chuỗi cung ứng liên quan.
TS. Kåre Helge Karstensen thừa nhận, việc thực hiện đồng xử lý an toàn trong ngành xi măng cần có thời gian và sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, điều kiện của các địa phương và quốc gia, vì vậy, phải có khung pháp lý và các quy định, công ty xi măng và nhà điều hành đồng xử lý phải có đủ năng lực, kiến thức, đủ thiết bị và các giấy phép liên quan; phải có sự đồng tình ủng hộ của chính quyền địa phương và trung ương, và phải có một sân chơi bình đẳng cho tất cả các bên tham gia trong “thị trường quản lý chất thải”.
Thông qua hội thảo, các đại biểu mong muốn chính phủ Việt Nam sớm có được hành lang pháp lý đầy đủ và thuận lợi để ngành công nghiệp xi măng có thể thực sự trở thành một đối tác quan trọng góp phần tăng cường quản lý tổng hợp chất thải rắn. Nguồn chất thải rắn phù hợp và ổn định cung cấp cho quá trình đồng xử lý cần được quy hoạch, thu gom, vận chuyển và lưu trữ phù hợp trong điều kiện của Việt Nam. Vì thế, các công ty xi măng cũng rất cần sự hỗ trợ về mặt khoa học, kỹ thuật và nguồn nhân lực, vật lực cũng rất cần thiết cho các công ty xi măng để sớm triển khai áp dụng đồng xử lý tại Việt Nam.