Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam vừa giao Bộ Thông tin và Truyền thông nghiên cứu, xây dựng dự án Luật Viễn thông (sửa đổi), trình Chính phủ trong tháng 1/2023.
Trên cơ sở xem xét đề nghị của Bộ Thông tin và Truyền thông tại báo cáo kết quả nghiên cứu, rà soát, đánh giá việc thực hiện Luật Viễn thông năm 2009, Phó Thủ tướng cũng chỉ đạo Bộ Thông tin và Truyền thông sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực viễn thông theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nhằm tháo gỡ vướng mắc, thúc đẩy phát triển hoạt động viễn thông.
Bộ Thông tin và Truyền thông cùng với Bộ Tư pháp hoàn thiện báo cáo của Chính phủ về kết quả nghiên cứu, rà soát pháp luật, trong đó có nội dung nghiên cứu, rà soát Luật Viễn thông, gửi cơ quan có thẩm quyền theo đúng quy định.
Thúc đẩy cạnh tranh, phát triển hạ tầng và thị trường viễn thông đa dạng dịch vụ
Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, Luật Viễn thông được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ 6 ngày 23/11/2009 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2010, có ý nghĩa rất quan trọng đối với tiến trình phát triển, hội nhập của nền kinh tế nói chung và ngành viễn thông nói riêng, đánh dấu bước phát triển mới của pháp luật về viễn thông ở nước ta, đặc biệt là trước xu thế toàn cầu hóa.
Sau hơn 10 năm áp dụng, Luật Viễn thông và các văn bản hướng dẫn thi hành đã giúp thúc đẩy cạnh tranh, phát triển cơ sở hạ tầng mạng viễn thông hiện đại, phát triển thị trường viễn thông với đa dạng các dịch vụ, đáp ứng nhu cầu của người sử dụng và nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần đảm bảo an ninh và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.
Luật Viễn thông đã tác động trực tiếp, tích cực đến sự phát triển nhanh, bền vững cơ sở hạ tầng và dịch vụ viễn thông; đáp ứng các nhu cầu của phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng của đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thúc đẩy cạnh tranh, từng bước hoàn thiện thị trường viễn thông Việt Nam phát triển lành mạnh, bình đẳng và hội nhập quốc tế; mang lại ngày càng nhiều lợi ích hợp pháp hơn cho người dân và các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động viễn thông.
Điều này cũng góp phần nâng cao và khai thác hiệu quả tài nguyên viễn thông; hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước về viễn thông trong điều kiện hội tụ của công nghệ và dịch vụ.
Cơ sở hạ tầng mạng lưới viễn thông của Việt Nam tiếp tục được mở rộng, hiện đại hóa và phát triển mạnh mẽ. Việt Nam đã thiết lập được hạ tầng mạng lưới viễn thông tốc độ cao, băng thông rộng, vùng phủ lớn làm nền tảng cho sự phát triển hệ sinh thái số.
Bộ Thông tin và Truyền thông cho rằng hạ tầng mạng lưới này đã góp phần đưa dịch vụ số vào các hoạt động đời sống kinh tế xã hội và sẽ là nền tảng vững chắc cho nền kinh tế số trong tương lai thông qua việc đầu tư, nâng cấp mở rộng mạng 4G, triển khai 5G (trong thời gian tới) và mạng cáp quang phủ rộng khắp đến từng hộ gia đình với năng lực truyền tải dung lượng Tbps để cung cấp các kết nối dung lượng lớn, chất lượng cao đáp ứng cho IoT, Cách mạng công nghiệp 4.0...
Bên cạnh đó, thị trường dịch vụ viễn thông Việt nam cũng đã có những thay đổi so với giai đoạn trước năm 2009.
Giải quyết các bất cập, đáp ứng xu thế mới
Tuy nhiên, trải qua hơn 10 năm thi hành, một số quy định của Luật Viễn thông đã bộc lộ một số hạn chế, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu trong thực tiễn cần được điều chỉnh để giải quyết các vấn đề khó khăn, vướng mắc trong công tác thực thi cũng như đáp ứng xu thế phát triển mới.
Dự thảo tờ trình của Bộ Thông tin và Truyền thông nhấn mạnh, xu hướng hội tụ giữa viễn thông, phát thanh truyền hình, công nghệ thông tin và tự động hóa đặt ra những yêu cầu mới đối với lĩnh vực viễn thông. Công nghệ phát triển đã tạo ra các loại hình dịch vụ mới, mô hình kinh doanh mới thúc đẩy việc hình thành cơ sở hạ tầng viễn thông mới kết hợp với các hạ tầng kỹ thuật khác phục vụ nhu cầu phát triển của xã hội, của nền kinh tế.
Cơ sở hạ tầng viễn thông cần được mở rộng thêm các cấu phần mới nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển là hạ tầng phục vụ kinh tế số, xã hội số. Các dịch vụ viễn thông truyền thống cũng cần thay đổi cách quản lý cho phù hợp để đảm bảo các dịch vụ kết nối, đảm bảo chất lượng dịch vụ phục vụ hoạt động của các ngành, lĩnh vực trên môi trường mạng.
Các quy định về quản lý và điều tiết thị trường hiện nay đã thể hiện một số bất cập như chưa có chính sách phát triển các doanh nghiệp mạng viễn thông di động ảo; chưa có quy định cụ thể về nghĩa vụ của các doanh nghiệp có hạ tầng mạng trong việc cho thuê hạ tầng dẫn đến hạ tầng viễn thông đã được đầu tư chưa được khai thác hết năng lực, thị trường mạng viễn thông ảo ở Việt Nam chậm phát triển, các nhóm khách hàng thuộc thị trường ngách chưa phát triển…
Công nghệ phát triển đã tạo ra các loại hình dịch vụ mới, mô hình kinh doanh mới thúc đẩy việc hình thành cơ sở hạ tầng viễn thông mới kết hợp với các hạ tầng kỹ thuật khác phục vụ nhu cầu phát triển của xã hội, của nền kinh tế số.
Bên cạnh đó, Luật Viễn thông đã được ban hành 12 năm, trong bối cảnh ngành viễn thông có những bước phát triển mạnh mẽ và Việt Nam phải thực thi nhiều cam kết quốc tế, Luật Viễn thông cần nội luật hóa các cam kết mà Việt Nam là thành viên và xem xét bổ sung, hoàn thiện một số quy định để thực thi các cam kết đã có trong tình hình phải bảo đảm an toàn, an ninh trên không gian mạng, bảo đảm chủ quyền quốc gia.
Luật Viễn thông khi được ban hành đảm bảo tính đồng bộ, phù hợp với các quy định của các luật chung và nội luật hóa các cam kết quốc tế trong WTO, CPTPP, EVFTA… mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, từ năm 2010 đến nay, một số luật chung như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh, Luật Quy hoạch, Luật Quản lý và sử dụng tài sản công,… đã được ban hành và sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế.
Do đó, Luật Viễn thông cũng cần được xem xét, điều chỉnh để phù hợp với thực tế phát triển viễn thông hiện nay và đồng bộ, thống nhất với quy định của các luật chung. Việc sửa đổi Luật Viễn thông là cần thiết để khắc phục triệt để những vướng mắc, bất cập và bảo đảm phù hợp với thực tiễn của lĩnh vực viễn thông. Đồng thời đáp ứng yêu cầu quản lý phù hợp với xu thế hội tụ giữa viễn thông và công nghệ thông tin, xu thế chuyển đổi số quốc gia.
Hiện tại, Bộ Thông tin và Truyền thông đang xây dựng Dự thảo Hồ sơ dự án Luật Viễn thông (sửa đổi) và lấy ý kiến của các đối tượng chịu tác động. Dự thảo Luật Viễn thông sửa đổi gồm 11 chương và 79 điều.