Triển khai vẫn chậm
Về tình hình thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) thời gian qua, tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV, Bộ trưởng Bộ Tài chính cho biết, lũy kế giai đoạn 2016 - 2020, ghi nhận 180 DN thực hiện cổ phần hóa với tổng giá trị DN là 489.690 tỷ đồng, giá trị vốn nhà nước là 233.792 tỷ đồng; trong đó có 39/128 DN cổ phần hóa thuộc danh mục cổ phần hóa theo công văn số 991/TTg-ĐMDN và Quyết định số 26/2019/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (đạt 30% kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt), tổng giá trị thực tế bán được là 22.748 tỷ đồng đạt 23% kế hoạch dự kiến bán, tương đương 11% giá trị phần vốn nhà nước tại DN.
Từ năm 2021 đến 5 tháng đầu năm 2022, ghi nhận 5 DN cổ phần hóa với tổng giá trị DN là 642 tỷ đồng, giá trị thực tế phần vốn nhà nước là 474 tỷ đồng, trong đó có 1 DN cổ phần hóa thuộc danh mục cổ phần hóa theo công văn số 991/TTg-ĐMDN và Quyết định số 26/2019/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (đạt 0,7% kế hoạch thực hiện giai đoạn 2016-2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt).
Về tình hình thực hiện thoái vốn DNNN, lũy kế giai đoạn 2016-2020 tổng giá trị thoái vốn là 27.312 tỷ đồng, thu về 177.397 tỷ đồng. Trong đó, thoái vốn nhà nước tại 106 đơn vị thuộc Quyết định số 1232/QĐ-TTg và Quyết định số 908/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ với giá trị 6.493 tỷ đồng, thu về 13.583 tỷ đồng (đạt 30% về số lượng và 11% về giá trị so với kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt); Thoái vốn nhà nước tại các DN ngoài danh mục theo Quyết định số 1232/QĐ-TTg: Đã thoái 3.785 tỷ đồng vốn nhà nước, thu về 110.392 tỷ đồng (bao gồm khoản thoái vốn 3.436 tỷ đồng, thu về 109.965 tỷ đồng tại Sabeco); Các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước thực hiện thoái vốn 17.032 tỷ đồng, thu về 53.420 tỷ đồng.
Từ năm 2021 đến 5 tháng đầu năm 2022, đã thoái vốn tại 38 DN với giá trị 2.047 tỷ đồng, thu về 6.582 tỷ đồng trong đó thoái vốn nhà nước tại 4 DN thuộc Quyết định số 908/QĐ-TTg với giá trị 52,8 tỷ đồng thu về 85,1 tỷ đồng, còn lại là thoái vốn của Tập đoàn, Tổng công ty tại DN.
Đánh giá các vấn đề tồn tại, hạn chế, Bộ trưởng cho biết, việc nghiên cứu, xây dựng ban hành, sửa đổi bổ sung văn bản quy phạm pháp luật do còn nhiều quan điểm khác nhau giữa các cơ quan, đơn vị liên quan (như liên quan đến xác định giá trị quyền sử dụng đất, giá trị văn hoá lịch sử…) dẫn đến kéo dài thời gian, làm giảm tính hiệu quả, kịp thời xử lý các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn.
Cơ chế, chính sách được hoàn thiện chặt chẽ hơn, công khai minh bạch theo nguyên tắc thị trường, tối đa hóa lợi ích của nhà nước, hạn chế thất thoát vốn, tài sản nhà nước trong quá trình cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN, đảm bảo đầy đủ thủ tục, cơ sở pháp lý, do đó việc rà soát, phê duyệt phương án sử dụng đất của DN thực hiện cổ phần hóa phải thực hiện nhiều quy trình, thủ tục mất nhiều thời gian do lịch sử pháp lý đất đai phức tạp.
Đồng thời đa số các tập đoàn, tổng công ty, DNNN chưa chủ động triển khai các quy định của nhà nước, đến khi phải thực hiện cổ phần hóa mới bắt đầu thực hiện sắp xếp lại, xử lý nhà, đất, đã ảnh hưởng đến tiến độ cổ phần hóa.
Việc rà soát, sửa đổi, bổ sung danh mục và kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn chậm, chưa đảm bảo tính kịp thời còn hình thức, thiếu khả thi, chưa sát với thực tế; Số lượng DN cổ phần hóa đã vượt kế hoạch đề ra tuy nhiên số lượng DN cổ phần hóa ngoài kế hoạch nhiều hơn số lượng DN cổ phần hóa theo kế hoạch Thủ tướng Chính phủ đã ban hành; Một số đơn vị đăng ký danh sách thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn nhiều nhưng không triển khai đúng theo kế hoạch.
Nhiều cơ sở nhà, đất của DNNN chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án sắp xếp lại, xử lý nhà, đất. Chưa giải quyết được một số tồn tại, vướng mắc các dự án thua lỗ, kém hiệu quả. Tỷ lệ vốn nhà nước nắm giữ tại DN sau cổ phần hóa còn cao. Chậm quyết toán bàn giao sang công ty cổ phần của các DN đã cổ phần hóa chuyển sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần...
Hoàn thiện pháp luật để đẩy nhanh hơn tiến độ
Nguyên nhân là do DN cổ phần hóa, thoái vốn có quy mô lớn, sở hữu nhiều đất đai. Dịch bệnh Covid-19 ảnh hưởng lớn đến tình hình thị trường tài chính, chứng khoán trong nước và khu vực, ảnh hưởng đến công tác xác định giá trị DN, lập phương án sử dụng đất để thực hiện cổ phần hóa, triển khai công tác đấu giá phần vốn nhà nước theo quy định. Việc triển khai cổ phần hóa, thoái vốn phụ thuộc vào tình hình thị trường, lựa chọn thời điểm bán cổ phần hợp lý để đem lại hiệu quả, đảm bảo tính khả thi.
Về chủ quan, tư duy, nhận thức về vai trò, vị trí của DNNN chưa thống nhất dẫn tới lúng túng trong hoàn thiện thể chế và tổ chức thực hiện. Một số vấn đề chưa rõ, còn ý kiến khác nhau nhưng chậm được tổng kết thực tiễn, kết luận để có thể cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật, ví dụ vấn đề vị trí của DNNN trong thực hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, vấn đề trao quyền tự chủ của DNNN, vấn đề sử dụng DNNN làm công cụ điều tiết kinh tế... Vai trò, nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu DN, đơn vị còn chưa cao, chưa quyết liệt trong việc đổi mới hoạt động của DN, công khai minh bạch, đúng quy định pháp luật, đảm bảo nguyên tắc thị trường, chống lợi ích nhóm trong cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước. Một số Bộ, ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty nhà nước chưa quan tâm đúng mức đến việc sắp xếp, xử lý nhà, đất.
Nội tại DNNN do nhiều yếu tố cấu thành nên bản thân DNNN chậm đổi mới, chưa theo kịp và thích ứng với yêu cầu và bối cảnh phát triển kinh tế thị trường; Việc phối hợp giữa các cơ quan đại diện chủ sở hữu với các Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, Bộ, ngành liên quan trong việc thực hiện lập, phê duyệt phương án sắp xếp lại, xử lý nhà, đất theo quy định về sắp xếp lại, xử lý tài sản công còn chưa tốt, tiến độ tham gia ý kiến, phê duyệt còn chậm...
Đề cập đến các giải pháp khắc phục thời gian tới, Bộ trưởng Hồ Hức Phớc cho biết, các cơ chế chính sách pháp luật sẽ tiếp tục được rà soát, nghiên cứu, hoàn thiện một cách đồng bộ để đảm bảo đẩy nhanh hơn tiến độ cổ phần hóa DN. Trong đó, kịp thời rà soát, sửa đổi các quy định tại Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại DN, Luật Đấu thầu, Luật Đất đai… và các văn bản pháp luật khác có liên quan để khắc phục vướng mắc, khó khăn phát sinh trong cơ cấu lại DNNN, đầu tư, quản lý vốn nhà nước tại DN để đáp ứng tốt hơn các yêu cầu thực tiễn.
Bên cạnh đó là đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm, trao quyền chủ động hơn cho DN, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong cơ cấu lại và triển khai các hoạt động sản xuất kinh doanh; tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra hoạt động của DNNN, kiểm soát quyền lực, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Nghiên cứu đổi mới các quy định xác định giá trị quyền sử dụng đất bám sát tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành TW Đảng khóa XIII; quy định việc không tính giá trị đất vào giá trị DN khi thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn.
Theo đó, DNNN trước cổ phần hóa phải chuyển sang thuê đất trả tiền hàng năm và sau cổ phần hóa phải cam kết thực hiện đúng mục đích sử dụng đất cho sản xuất kinh doanh, giữ nguyên hình thức thuê đất trả tiền hàng năm. Việc chuyển mục đích sử dụng đất, DN sau cổ phần hóa phải tuân thủ quy hoạch, bảo đảm điều kiện, trình tự, thủ tục đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định. Kiên quyết thu hồi đất theo quy định của pháp luật đối với các trường hợp vi phạm.
Việc xử lý nhà đất đối với DN quản lý nhiều đất đai ở vị trí có lợi thế thương mại thực hiện theo quy định sắp xếp cơ sở nhà đất của Luật quản lý sử dụng tài sản công, không phân biệt DN do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hay DN sau cổ phần hóa.
Về xác định giá đất theo quy định của Luật Ðất đai năm 2013 đồng bộ với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa quy định rõ cơ chế, phương pháp xác định giá đất, cơ quan chịu trách nhiệm xác định, quyết định, giám sát, kiểm tra, nâng cao chất lượng công tác định giá đất, tính độc lập của Hội đồng thẩm định giá đất, tổ chức tư vấn xác định giá đất đảm bảo công khai minh bạch.
Bổ sung những chế định đấu giá quyền sử dụng đất và quyền thuê đất vào Luật Đấu thầu, đảm bảo tính công khai, minh bạch và thông tin đầy đủ về đất (diện tích, vị trí, giá thuê, phương thức trả tiền…).
Đồng thời với đó là nghiên cứu đổi mới việc xác định giá trị DN theo hướng giao tổ chức tư vấn xác định giá trị DN theo theo quy định của pháp luật giá và thẩm định giá.