Phiên giao dịch ngày 7/9, chỉ số Dollar Index đo sức mạnh đồng USD so với một rổ gồm 6 đồng tiền chủ chốt khác tăng lên mức cao nhất trong vòng 20 năm qua. Theo dữ liệu từ trang MarketWatch, Dollar Index có lúc đạt 110,75 điểm, cao nhất kể từ năm 2002. Trong phiên, đồng USD có lúc lập đỉnh 24 năm so với đồng Yên Nhật và 37 năm so với đồng Bảng Anh.
Tỷ giá đồng Euro so với USD có lúc giảm còn 0,9864 USD đổi 1 Euro, mức thấp nhất kể từ tháng 10/2002. Cùng ngày 7/9, đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc rớt giá xuống mức xuống mức thấp nhất 2 năm, gần ngưỡng tâm lý 7 Nhân dân tệ đổi 1 USD. Có thời điểm trong phiên giao dịch, tỷ giá Nhân dân tệ tại thị trường ngoài Trung Quốc đại lục giảm còn 6,997 Nhân dân tệ đổi 1 USD.
Việc USD tăng giá mạnh đồng nghĩa với sự mất giá của các đồng tiền khác, đẩy giá nhập khẩu hàng hoá đặc biệt là giá lương thực-thực phẩm và xăng dầu ở nhiều quốc gia tăng cao, “thổi” lạm phát tăng chóng mặt. Tình trạng này gây áp lực đòi hỏi các ngân hàng trung ương khác phải “chạy đua” lãi suất với Fed, đặc biệt là Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) - cơ quan hoạch định chính sách tiền tệ đang đối mặt cùng lúc với cuộc khủng hoảng năng lượng và cuộc khủng hoảng sinh hoạt phí chưa từng có tiền lệ. Như một “vòng luẩn quẩn”, lãi suất tăng gây giảm tốc tăng trưởng, khiến các nền kinh tế càng đuối sức so với Mỹ và tỷ giá đồng tiền của các nước khác càng yếu so với USD.
Trong cuộc họp vào ngày 8/9, ECB nâng lãi suất với bước nhảy lớn kỷ lục 0,75 điểm phần trăm, bất chấp nền kinh tế khu vực sử dụng đồng tiền chung Eurozone bị cho là đang chìm dần vào một cuộc suy thoái sâu và kéo dài. Ngày 7/9, Ngân hàng Trung ương Canada (BOC) tăng lãi suất 0,75 điểm phần trăm, lên mức cao nhất 14 năm - một động thái cũng không nằm ngoài dự báo - và nói rằng lãi suất cần phải tăng cao hơn nữa để chống lạm phát.
Trong những tháng qua, các động thái tăng lãi suất liên tiếp và mạnh tay cũng đã diễn ra ở Anh, Australia và New Zealand. Tuy nhiên, việc các quốc gia khác thắt chặt chính sách tiền tệ dường như không có nhiều tác dụng trong việc kiềm chế xu hướng tăng của đồng USD, đồng nghĩa khó sớm có một sự giải toả những áp lực đến từ việc USD tăng giá. Hôm 6/9, Ngân hàng Trung ương Australia (RBA) nâng lãi suất 0,5 điểm phần trăm, nhưng đồng Đôla Australia vẫn giảm giá so với USD sau đó. Và mặc cho động thái ngày 7/9 của BOC, tỷ giá đồng Đôla Canada gần như không tăng so với USD.
Theo tạp chí Fortune, ảnh hưởng lan rộng toàn cầu từ những chu kỳ thắt chặt chính sách tiền tệ của Fed không phải là chuyện mới, nhưng đây là lần đầu tiên trong những năm gần đây, một đợt tăng giá mạnh của đồng USD lại có ảnh hưởng lớn đến như vậy tới tỷ giá đồng tiền của các nền kinh phát triển thay vì ảnh hưởng nhiều hơn tới các nền kinh tế mới nổi.
“Sự tăng giá của đồng USD thường xuất hiện cùng với sự gia tăng lãi suất ngắn hạn và dài hạn ở Mỹ, hoặc khi có căng thẳng trên thị trường toàn cầu và nhà đầu tư đổ xô mua đồng USD - một tài sản được coi là an toàn. Hiện nay, các điều kiện tài chính thắt chặt lại do USD tăng giá đang khiến các nền kinh tế phát triển giảm tốc”, chuyên gia cấp cao Maurice Obstfeld thuộc Viện Kinh tế Quốc tế Peterson nhận định trên Fortune.
Cách đây 1 năm, khi việc Fed chuyển sang lập trường cứng rắn về chính sách tiền tệ trở nên rõ ràng, đồng tiền của các nền kinh tế phát triển đã ngay lập tức trầy trật không kém gì đồng tiền của các nền kinh tế mới nổi. Trong số 31 đồng tiền chủ chốt được hãng tin Bloomberg theo dõi, có 4/10 đồng tiền mất giá mạnh nhất so với USD là đồng tiền của các nền kinh tế phát triển. Trong số 10 đồng tăng giá mạnh nhất, chỉ có 1 đồng là đồng tiền của nền kinh tế phát triển, đó là đồng Đôla Canada.
Năm nay, tình hình của đồng tiền các nền kinh tế phát triển trở nên tệ hơn. Chỉ số USD dựa theo trọng số thương mại (trade weighted) đã tăng 10% so với đồng tiền của các nền kinh tế phát triển, đạt mức cao nhất kể từ năm 2002. Trong khi đó, chỉ số sức mạnh tương ứng của đồng bạc xanh so với đồng tiền của các nền kinh tế mới nổi chỉ tăng 3,7%, và hiện ở mức thấp hơn nhiều so với mức đỉnh thiết lập khi đại dịch Covid-19 căng thẳng vào năm 2020.
Một số đồng tiền trong nhóm mất giá mạnh nhất thế giới năm nay là của những nền kinh tế đang phát triển như Sri Lanka, nhưng sự tăng giá nổi trội của đồng tiền những quốc gia xuất khẩu nhiều hàng hoá cơ bản như đồng Real Brazil và đồng Rúp Nga đã củng cố sức mạnh cho nhóm tiền tệ của các nền kinh tế mới nổi nói chung.
Nhiều nền kinh tế mới nổi cũng đã hứng chịu tác động của “cuộc đua” lãi suất và “cơn sốt” lạm phát trên toàn cầu hiện nay. Tuy nhiên, nếu so với trong những chu kỳ thắt chặt chính sách tiền tệ trước đây của Fed, lần này, các nền kinh tế mới nổi đã thể hiện được khả năng chống chọi tốt hơn, chí ít nhờ họ đã có được dự trữ ngoại hối dồi dào hơn và đã nhanh tay tăng lãi suất từ trước khi Fed hành động. Một số nền kinh tế mới nổi, như Chile và Ấn Độ, cũng đã can thiệp để bảo vệ tỷ giá đồng nội tệ - một phương pháp khó khăn hơn về mặt chính trị đối với các quốc gia phát triển.
“Nếu chỉ bằng cách tăng lãi suất chính sách, các quốc gia sẽ không thể ngăn được đà giảm giá của đồng nội tệ” so với USD, giáo sư Sayuri Shirai của Đại học Keio, Nhật Bản, nói với Fortune. Vị giáo sư giải thích rằng đó là bởi “sức mạnh của đồng USD không chỉ phản ánh kỳ vọng vào các động thái tăng lãi suất của Fed trong năm nay - nhân tố dẫn tới nhu cầu cao hơn đối với các tài sản Mỹ có thu nhập cố định, mà còn phản ánh nguy cơ suy thoái kinh tế trên toàn cầu xuất hiện từ những đợt tăng lãi suất chính sách lớn hơn dự báo trên khắp thế giới”.
Tại Anh, Ngân hàng Trung ương nước này (BOE) có thể tiếp tục nâng lãi suất vào ngày 15/9 tới trong bối cảnh sự mất mát niềm tin của nhà đầu tư khiến tỷ giá đồng Bảng bị đẩy xuống mức thấp nhất kể từ năm 1985. Trong khi đó tại Nhật Bản, Thống đốc Ngân hàng Trung ương nước này (BOJ) đang giữ vững lập trường rằng nền kinh tế vẫn cần tới sự hỗ trợ của chính sách tiền tệ nới lỏng mạnh tay, ngay cả khi áp lực giá cả tăng lên. Điều này càng khiến cho đồng Yên càng khó đảo ngược xu hướng mất giá so với USD, cho dù tỷ giá đồng tiền này so với đồng bạc xanh đang thấp nhất kể từ năm 1997.
“Vấn đề đang trở thành một câu chuyện về tăng trưởng kinh tế, và thực sự là câu chuyện khủng hoảng. Trung Quốc vẫn đang tiếp tục chính sách Zero Covid và sẵn sàng phong toả thêm các thành phố. Châu Âu và Anh đang đứng trước những tháng đầy khó khăn, và suy thoái gần như là chắc chắn sẽ xảy ra đối với cả hai. Trong khi đó, kinh tế Mỹ vẫn đang vững vàng”, chiến lược gia vĩ mô Erik Nelson của ngân hàng Wells Fargo nhận định với hãng tin Reuters.
Việc ECB nâng lãi suất với bước nhảy “khủng” vào ngày 8/9 được cho là sẽ không có nhiều tác dụng hỗ trợ tỷ giá đồng Euro trong thời gian tới, xét tới tình trạng “tơi tả” hiện nay của kinh tế châu Âu và việc Nga “khoá van” vô thời hạn đường ống dẫn khí đốt Nord Stream 1.
Thị trường tài chính toàn cầu, và chính các quan chức Fed, kỳ vọng ngân hàng trung ương quyền lực nhất thế giới sẽ còn một chặng đường dài để đi trước khi hoàn tất chu kỳ thắt chặt chính sách tiền tệ quyết liệt nhất trong nhiều thập kỷ. Bởi vậy, sức ép chạy đua lãi suất với các ngân hàng trung ương khác trên thế giới chỉ có thể chỉ được giải toả khi lạm phát ở Mỹ được đưa về tầm kiểm soát.
Đối với những ngân hàng trung ương như ECB - với đồng tiền được giao dịch nhiều nhất với đồng USD - cuộc khủng hoảng năng lượng hiện nay mang lại một hồi chuông cảnh tỉnh đặc biệt rõ ràng đối với các nhà hoạch định chính sách về vai trò của đồng Euro như một kênh dẫn lạm phát - đặc biệt bởi đồng USD được sử dụng để định giá hàng hoá cơ bản trên toàn cầu.
“Tôi muốn lập luận rằng trong tình huống cú sốc nguồn cung năng lượng đặc biệt này, vấn đề tỷ giá hối đoái càng giữ vai trò quan trọng”, bà Isabel Schanel - một thành viên Hội đồng Điều hành ECB - phát biểu trong một cuộc trả lời phỏng vấn hãng tin Reuters hồi tháng 8.
Nhật Bản, quốc gia có đồng tiền được giao dịch nhiều thứ hai với đồng USD, cũng đang cảm nhận rõ ảnh hưởng của biến động tỷ giá. Điều này thể hiện qua việc biến động trên thị trường ngoại hối đang diễn ra “kịch tính” nhất ở cặp USD/Yên. Từ đầu tháng 8 tới nay, đồng tiền của Nhật đã rớt giá hơn 10% so với đồng tiền của Mỹ. Đồng Yên hiện đã giảm giá so với USD quá mức 143 Yên đổi 1 USD, còn cách không xa mốc 146 Yên/1 USD - ngưỡng tỷ giá hồi năm 1998 khiến nhà chức trách Nhật và Mỹ phải phối hợp hành động để “cứu” đồng Yên. Sự mất giá này của đồng Yên cũng làm gia tăng khả năng lạm phát ở đất nước mặt trời mọc vượt 3% - cao hơn nhiều so với mức lạm phát mục tiêu 2% mà BOJ đề ra.
Thống đốc BOJ Haruhiko Kuroda khẳng định rằng giá cả ở Nhật tăng lên gần đây chủ yếu do yếu tố nguồn cung và tình trạng này sẽ không kéo dài. Tuy nhiên, các hộ gia đình và doanh nghiệp ở Nhật đang ngày càng cảm thấy lo lắng vì sự lao dốc của đồng Yên đẩy chi phí năng lượng vốn đã cao càng cao hơn và giá hàng hoá nhập khẩu cũng đội lên từng ngày. Trong bối cảnh như vậy, các quan chức Nhật Bản đã liên tục lên tiếng cảnh báo về sự biến động quá mức của tỷ giá. Tại một cuộc họp báo ngày 7/9, chánh thư ký nội các Nhật Bản Hirokazu Matsuno nói rằng Chính phủ nước này sẽ triển khai các biện pháp cần thiết nếu “biến động nhanh và một chiều” trên thị trường tiền tệ còn tiếp diễn. Dù vậy, chiến lược gia trưởng Alan Ruskin của Deutsche Bank nhận định trong một báo cáo rằng việc giới chức Nhật chỉ đưa ra những phát biểu mang tính cảnh báo “suông” có thể đồng nghĩa rằng chưa đến lúc BOJ tính chuyện tăng lãi suất.
Như đã đề cập ở trên, đối với nhiều nền kinh tế, chẳng hạn như châu Âu, vấn đề lớn hơn nằm ở chỗ việc ngân hàng trung ương nâng lãi suất có thể sẽ không mang lại nhiều tác dụng trong việc chặn đà lao dốc của đồng nội tệ, vì nền kinh tế của những nước đó đang ở trong một trạng thái mong manh hơn so với kinh tế Mỹ. Ngoài ra, giới phân tích nhận thấy khả năng can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ tỷ giá đồng nội tệ là khó xảy ra, xét tới việc hầu hết các quốc gia đang tập trung vào vấn đề chống lạm phát hơn là vấn đề biến động tỷ giá.
Đồng Bảng Anh là một ví dụ điển hình. Sự rớt giá của đồng tiền này gần đây diễn ra ngay cả khi các nhà giao dịch đặt cược rằng BOE sẽ nâng lãi suất với tốc độ nhanh hơn Fed. Thị trường đang dự báo lãi suất cơ bản của Anh sẽ đạt đỉnh ở mức 4,25% trong vòng 6 tháng tới, vượt mức lãi suất 4% dự kiến của Fed trong cùng khoảng thời gian. Thậm chí, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBOC) còn đang đi ngược xu hướng toàn cầu khi gần đây liên tục hạ lãi suất để vực dậy tăng trưởng kinh tế.
Bởi vậy, cơ hội để giải toả áp lực tỷ giá đối với các nền kinh tế trên thế giới, đặc biệt là tỷ giá đồng tiền của các quốc gia phát triển, sẽ là khi nền kinh tế Mỹ giảm tốc, lạm phát ở Mỹ dịu đi, và Fed không còn phải tăng lãi suất với những bước nhảy lớn - đến mức khiến cho đồng USD suy yếu.
Bước nhảy lãi suất của Fed trong cuộc họp chính sách tiền tệ vào ngày 20-21/9 sẽ tuỳ thuộc nhiều vào báo cáo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) mà Bộ Lao động nước này dự kiến công bố vào ngày 13/9. Ở thời điểm hiện tại, những tín hiệu được các quan chức Fed phát đi đều cho thấy sự cần thiết phải duy trì chính sách tiền tệ trong một thời gian nhất định để khống chế lạm phát, có nghĩa là áp lực tỷ giá đối với các quốc gia ngoài Mỹ sẽ không sớm được dịu đi.
“Vấn đề tỷ giá sẽ trở nên căng thẳng hơn đối với các nhà hoạch định chính sách của các nền kinh tế phát triển nếu đồng USD tiếp tục tăng giá mạnh”, chuyên gia kinh tế trưởng Mansoor Mohi-uddin của ngân hàng Bank of Singapore nhận định. “Vì vậy, các ngân hàng trung ương cần tăng lãi suất trong năm nay, ngay cả khi thị trường tài chính trong nước sụt giảm và tăng trưởng đi xuống”.