Theo Fitch Ratings, việc nâng hạng phản ánh triển vọng tăng trưởng trung hạn thuận lợi của Việt Nam, được củng cố bởi dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mạnh mẽ.
"Chúng tôi ngày càng tin tưởng rằng những trở ngại kinh tế trong ngắn hạn trong lĩnh vực bất động sản, nhu cầu toàn cầu suy yếu sẽ khó có thể ảnh hưởng đến triển vọng kinh tế vĩ mô trong trung hạn cùng với dư địa chính sách dồi dào sẽ góp phần kiểm soát rủi ro trong ngắn hạn", báo cáo của Fitch Ratings nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, Tăng trưởng kinh tế sẽ tiếp tục củng cố nền tài chính công lành mạnh, với nợ Chính phủ được dự báo sẽ tiếp tục duy trì ở mức thấp hơn so với các quốc gia cùng xếp hạng tín nhiệm.
Trong trung hạn, theo Fitch Ratings, tăng trưởng GDP năm 2023 của Việt Nam ước tính đạt khoảng 4,8%, thấp hơn khá nhiều so với con số 8% của năm 2022. Tuy nhiên, sang đến năm 2024 GDP Việt Nam sẽ tăng trưởng được 6,3% và 6,5% trong năm 2025.
GDP Việt Nam đã hồi phục trong quý 3/2023, tăng trưởng được 5,3% sau khi chỉ tăng trưởng được 3,7% trong nửa đầu năm 2023.
Theo Zeebiz (Ấn Độ), các cơ quan xếp hạng tín dụng đánh giá khả năng trả nợ của con nợ và khả năng vỡ nợ. Họ đánh giá rất nhiều công cụ nợ, bao gồm trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp. Đánh giá của họ ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất áp dụng cho các khoản nợ này và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch trên thị trường thứ cấp. Những xếp hạng này tượng trưng cho khả năng trả nợ đúng hạn của tổ chức phát hành.
Xếp hạng tín dụng về cơ bản cung cấp một cái nhìn tổng quan về tỷ lệ rủi ro và lợi nhuận khi mua các công cụ tài chính này. Trong khi có hàng trăm tổ chức xếp hạng tín dụng tồn tại trên khắp thế giới thì Moody's, Fitch và Standard and Poor's là ba tổ chức xếp hạng tín dụng lớn nhất.
Xếp hạng tín dụng có ý nghĩa gì đối với các quốc gia?
Hạ bậc là sự thay đổi tiêu cực trong xếp hạng nợ cho thấy triển vọng tương lai suy yếu. Ví dụ: khi xếp hạng tín dụng bị hạ cấp cho thấy nguy cơ không trả được nợ tăng lên. Xếp hạng nằm trong khoảng từ AAA (Aaa tại Moody's), được coi là hạng cao nhất đối với chứng khoán, đến C, cho biết trái phiếu bị vỡ nợ.
Chẳng hạn, một tổ chức hạ cấp trái phiếu Hoa Kỳ làm giảm Tín phiếu Kho bạc Hoa Kỳ. Các nền kinh tế khác có trái phiếu loại chính bao gồm Úc, Singapore, Na Uy, Đan Mạch, Đức, Thụy Sĩ, Hà Lan và một số quốc gia khác. Ngược lại, các quốc gia có xếp hạng tín dụng kém hơn ở thời điểm hiện tại bao gồm các quốc gia đang gặp khó khăn về kinh tế và các quốc gia không ổn định.
Việc nâng cấp cho thấy triển vọng trong tương lai được củng cố. Đánh giá thường dựa trên cả yếu tố khách quan và đánh giá của con người. Chúng vốn là những ý kiến có tính dự đoán và hướng tới tương lai hơn là những tuyên bố thực tế.
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc nâng và hạ xếp hạng tín dụng
Quá trình nâng cấp hoặc hạ xếp hạng tín dụng liên quan đến một số yếu tố. Các công ty tài chính thuê các nhà phân tích để điều chỉnh các xếp hạng này dựa trên các yếu tố thay đổi. Chúng có thể bao gồm các thông báo quan trọng, công bố báo cáo tài chính mới hoặc các sự kiện tin tức quan trọng liên quan đến ngành. Tuy nhiên, các yếu tố cụ thể có thể khác nhau khi nâng cấp và hạ cấp.
Ví dụ: Xếp hạng tín dụng có thể được nâng cấp dựa trên các yếu tố như bảng cân đối kế toán được cải thiện, những thay đổi tích cực trong điều kiện kinh doanh, xu hướng của ngành hoặc các biện pháp quản lý có lợi. Mặt khác, xếp hạng có thể bị hạ cấp do nguy cơ vỡ nợ tăng lên, bảng cân đối kế toán xấu đi, những thay đổi tiêu cực trong điều kiện kinh doanh và triển vọng thị trường bi quan.
Trong khi các cơ quan xếp hạng thường công bố các ghi chú giải thích lý do đằng sau những thay đổi về xếp hạng tín dụng thì công thức chính xác cho những thay đổi này lại rất bí mật.
Khi Fitch hạ xếp hạng trái phiếu Mỹ dựa trên “gánh nặng nợ chung của chính phủ” cũng như “sự xói mòn của cơ chế quản trị”. Cơ quan này đổ lỗi cho tình trạng bế tắc chính trị thường xuyên giữa các đảng phái là do trần nợ cùng với những thách thức tài chính chưa được giải quyết đã dẫn đến việc hạ mức xếp hạng. Một yếu tố quan trọng khác là tỷ lệ nợ trên GDP của nước này.