Ngày 10/11, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Viện FNF Việt Nam tổ chức hội thảo “Đánh giá hai năm thực thi Hiệp định EVFTA tại Việt Nam từ góc nhìn doanh nghiệp”.
Trên 40% doanh nghiệp hưởng ít nhất một lợi ích từ EVFTA
Hội thảo tổng kết 2 năm thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – liên minh châu Âu (EVFTA) cả từ góc độ thương mại - đầu tư và xây dựng pháp luật – thể chế tại Việt Nam, đồng thời công bố Báo cáo “Việt Nam sau 2 năm thực thi EVFTA từ góc nhìn doanh nghiệp” do VCCI thực hiện với sự hỗ trợ của Viện FNF dựa trên kết quả khảo sát hơn 500 doanh nghiệp trên cả nước và Nghiên cứu rà soát đánh giá các văn bản pháp luật thực thi EVFTA trong hai năm qua.
Phát biểu tại hội thảo, ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam nhận định, hai năm đầu thực thi Hiệp định EVFTA cũng là khoảng thời gian mà kinh tế thế giới và Việt Nam phải đối mặt với những biến động chưa từng có, từ dịch bệnh Covid-19, đứt gãy các chuỗi cung ứng, đến xung đột Nga-Ukraine, khủng hoảng năng lực, lương thực...
Tuy nhiên, các số liệu thống kê vĩ mô cho thấy, EVFTA đã góp một phần quan trọng làm giảm nhẹ các tác động bất lợi, giúp quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và EU phát triển khả quan.
Về thương mại, tổng kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang EU hai năm đầu thực thi (8/2020-7/2022) đạt 83,4 tỷ USD, tức trung bình 41,7 tỷ USD/năm, cao hơn tới 24% so với kim ngạch xuất khẩu trung bình năm giai đoạn 2016-2019 trước đó.
Tỷ lệ hàng xuất khẩu tận dụng ưu đãi thuế quan EVFTA năm 2020 đạt 14,8%, tăng lên 20,2% năm 2021 và 24,5% trong 6 tháng đầu năm 2022.
Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), FDI của EU vào Việt Nam năm 2020 đạt gần 1.376 triệu USD vốn đăng ký, giảm 8,6% so với 2019, đứng thứ 8 và chiếm 4,8% tổng vốn FDI vào Việt Nam.
Năm 2021, tình hình có cải thiện hơn, với tổng vốn hơn 1.405 triệu USD, tăng 2,2%, giúp EU vươn lên đứng thứ 5 nhưng tỷ trọng trong tổng FDI giảm nhẹ, chiếm 4,5%.
Đặc biệt, tổng vốn đầu tư bình quân năm giai đoạn 2017-2021 (giai đoạn sau khi EVFTA hoàn tất đàm phán) tăng 86% so với thời gian 2015-2016 liền trước đó. Tuy nhiên, đầu tư vào Việt Nam mới chỉ chiếm một tỷ trọng rất khiêm tốn trong tổng đầu tư ra nước ngoài của EU (0,35% năm 2021).
Theo bà Nguyễn Cẩm Trang, Phó Cục trưởng Cục Xuất Nhập khẩu, Bộ Công Thương, EVFTA đã góp phần đáng kể thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường đối tác.
Cụ thể, trong 2 năm thực thi Hiệp định này, nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng sang thị trường EU (như sắt thép tăng 739%; máy ảnh, máy quay phim, linh kiện tăng 260%; máy móc và thiết bị tăng 82,3%...).
Một số mặt hàng mới cũng có tăng trưởng cao sang thị trường EU trong giai đoạn này như nhóm gạo, sản phẩm mây tre, cói thảm (tăng trên 50%); các sản phẩm gốm, sứ (tăng trên 25%); nhóm rau quả, dây diện và dây cáp điện (tăng trên 15%)...
Chia sẻ kết quả khảo sát doanh nghiệp về EVFTA, bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập (VCCI) cho biết tỷ lệ các doanh nghiệp Việt Nam từng được hưởng lợi từ EVFTA là rất đáng khả quan, với gần 41% cho biết đã từng hưởng ít nhất một lợi ích nào đó từ EVFTA.
Lợi ích phổ biến nhất là từ các ưu đãi thuế quan đối với hàng xuất nhập khẩu và hiệu ứng tích cực trong gia tăng đơn hàng, doanh thu, lợi nhuận. Theo bà Trang, điều này có thể là kết quả của sự cải thiện trong mức độ hiểu biết của doanh nghiệp về Hiệp định này.
Theo khảo sát, có tới gần 94% doanh nghiệp từng nghe nói hoặc biết ở các mức độ khác nhau về Hiệp định này, cao nhất trong số các FTA đang thực hiện. Cứ 10 doanh nghiệp thì có 03 doanh nghiệp biết khá rõ và 01 doanh nghiệp biết rất rõ về các cam kết EVFTA có liên quan tới hoạt động kinh doanh của mình.
9 văn bản quy phạm pháp luật được sửa đổi, bổ sung, ban hành
Trong công tác xây dựng pháp luật thực thi EVFTA, kết quả rà soát của VCCI cho thấy trong 2 năm qua, đã có tổng cộng 9 văn bản quy phạm pháp luật được sửa đổi, bổ sung, ban hành nhằm thực thi các cam kết cụ thể trong 06 Chương và 01 Nghị định thư của Văn kiện EVFTA.
Mặc dù được soạn thảo với tiến độ nhanh hơn thông thường, phần lớn các văn bản quy phạm pháp luật thực thi EVFTA đều ban hành chậm so với mốc yêu cầu của Hiệp định là ngày 01/8/2020 (trung bình các văn bản quy phạm pháp luật về thương mại hàng hóa ban hành chậm 66 ngày, các văn bản về quy tắc chậm 632 ngày).
Trong khi tất cả các văn bản này đều bảo đảm tuân thủ yêu cầu cam kết (thông qua quy định về áp dụng hồi tố, áp dụng trực tiếp hoặc cách thức khác), việc ban hành chậm vẫn ít nhiều ảnh hưởng tới hiệu quả tận dụng cam kết EVFTA giai đoạn đầu của doanh nghiệp.
Nói về mức độ tương thích, theo bà Trang, rà soát cho thấy phần lớn các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật thực thi EVFTA đều tương thích với cam kết của Hiệp định mà chúng “nội luật hóa”.
Một số trường hợp quy định còn thực hiện các cam kết ở mức cao hơn yêu cầu hoặc với lộ trình sớm hơn (nhất là các quy định về đấu thầu gói thầu EVFTA).
Tuy nhiên, vẫn có một vài trường hợp quy định “nội luật hóa” chưa hoàn toàn bám sát cam kết (ví dụ về sở hữu trí tuệ), đặt thêm điều kiện làm hạn chế quyền hưởng ưu đãi (ví dụ về điều kiện nộp chậm chứng từ xuất xứ), hoặc hiện trạng pháp luật chưa bảo đảm việc thực thi cam kết EVFTA trên thực tế (ví dụ về quyền tự do liên kết của người lao động).