2022 ghi dấu một năm đầy biến động của thị trường chứng khoán (TTCK). VN-Index lần đầu tiên trong lịch sử vượt ngưỡng 1.500 nhưng cũng có thời điểm nhúng xuống dưới 900, mức thấp nhất trong vòng 2 năm qua.
Từ đầu năm, VN-Index đã có tổng cộng 38 phiên tăng/giảm từ 2% trở lên, nhiều hơn một phiên so với năm 2018 – giai đoạn thị trường có nhiều biến động mạnh khi VN-Index trở lại đỉnh 1.200 sau rất nhiều năm chờ đợi nhưng không giữ được thành quả sau đó. Như vậy, đến thời điểm hiện tại, 2022 đã trở thành năm có số phiên VN-Index tăng/giảm từ 2% trở lên nhiều nhất kể từ 2009 dù vẫn còn 2 tuần giao dịch để nâng cao “thành tích”.
Cần phải lưu ý rằng, thời điểm cách đây 13 năm, quy mô thị trường còn rất nhỏ với giá trị vốn hoá chỉ khoảng 600 nghìn tỷ đồng và gần 450 công ty niêm yết. Giai đoạn 2008-2009, ngoài cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, TTCK Việt Nam còn chịu áp lực từ mức định giá có phần “phi lý” với P/E cao ngất ngưởng sau “con sóng thần” năm 2007. Do đó, những phiên giao dịch có phần “giật cục” là điều khó tránh khỏi.
Tuy nhiên, sau hơn một thập kỷ, TTCK Việt Nam đã phát triển toàn diện về mọi mặt. Vốn hoá toàn thị trường hiện tại đã lên đến 4,5 triệu tỷ đồng cùng với hơn 700 mã chứng khoán được niêm yết bao gồm cổ phiếu, chứng chỉ quỹ ETF, chứng quyền có đảm bảo,... Định giá thị trường cũng đã hợp lý hơn rất nhiều với P/E VN-Index hiện ở mức 11,x lần (thời điểm trên đỉnh 1500 là 17,x lần). Vì thế, những biến động mạnh từ đầu năm 2022 ít nhiều đã gây bất ngờ với giới đầu tư.
Từ đầu năm, VN-Index đã có 19 phiên biến động trên 3% trong đó 3/4 nghiêng về chiều giảm điểm. Thậm chí, nhiều phiên giao dịch còn có biên độ dao động lên đến hơn 70 điểm (khoảng 5-7%) cùng với hàng loạt cổ phiếu “đảo như rang lạc” từ trần xuống sàn và ngược lại. Điều này phần nào phản ánh tính đầu cơ rất cao của chứng khoán Việt Nam.
Trên thực tế, giao dịch trực tiếp của nhà đầu tư cá nhân chiếm khoảng 80% thanh khoản trên TTCK Việt Nam và nhiều thời điểm làm “lu mờ” vai trò của các tổ chức lớn ngay cả các quỹ ngoại “lắm tiền nhiều của”. Đáng chú ý, sự quan tâm của các nhà đầu tư cá nhân lại tập trung vào nhóm cổ phiếu có vốn hóa nhỏ, có biến động giá cao, mang tính chất đầu cơ với mức độ rủi ro lớn.
Thêm nữa, quyết định của các nhà đầu tư cá nhân lại thường chịu ảnh hưởng lớn bởi yếu tố tâm lý. Dòng tiền fomo (fear of missing out) có thể nhanh chóng đẩy cổ phiếu tăng nóng nhưng mặt khác hiệu ứng đám đông cũng dễ gây ra tình trạng bán tháo trên diện rộng. Điều này khiến thị trường giao dịch sôi động hơn nhưng kéo theo đó các đợt điều chỉnh cũng ngày càng khốc liệt hơn.
Tuy nhiên, xu thế nhà đầu tư cá nhân tự đầu tư được đự báo sẽ thay đổi dần theo thời gian. Theo Goldman Sachs Global Investment Research, giá trị tài sản trên TTCK Trung Quốc được nắm giữ bởi các nhà đầu tư cá nhân đã giảm từ 60% vào đầu thập kỷ 2010s xuống 42% vào năm 2020 và dự kiến sẽ tiếp tục giảm xuống còn 30% vào năm 2030.
Ở Mỹ, vào những năm 1950, tài sản cổ phiếu tự quản lý bởi các nhà đầu tư cá nhân lên đến hơn 55% tổng gia sản, nhưng đến 2020, con số này chỉ còn là 11%. Đặc biệt là 65% tài sản đầu tư tài chính của mỗi gia đình Hoa Kỳ được phân bổ vào các quỹ hưu trí, quỹ mở và quỹ bảo hiểm, được quản lý chuyên nghiệp bởi các định chế và trung gian tài chính.
Với quy mô thị trường ngày càng lớn và có nhiều loại tài sản chứng khoán, việc tạo ra lợi nhuận đầu tư tốt sẽ ngày càng khó đối với các nhà đầu tư không chuyên, ít kinh nghiệm, thông tin và công cụ phân tích. Do đó, TTCK Việt Nam cũng sẽ khó nằm ngoài xu hướng trên.
Tuy nhiên, số lượng các quỹ đầu tư dù đã tăng nhanh trong 2 năm qua nhưng vẫn còn khiêm tốn so với các nước trong khu vực và chưa bắt kịp với nhu cầu đầu tư chứng khoán ngày càng lớn của người dân. Vì thế, vẫn cần thêm thời gian để cơ cấu giao dịch trên TTCK thay đổi theo hướng bền vững hơn.