Tại tọa đàm "Huy động các nguồn lực phát triển hạ tầng hàng không" do Cổng thông tin điện tử Chính phủ sáng 23/6, ông Nguyễn Anh Dũng, Phó vụ trưởng Vụ kế hoạch đầu tư, Bộ Giao thông Vận tải cho biết Việt Nam đang khai thác 22 cảng hàng không.
Trong đó có 21 cảng hàng không do doanh nghiệp nhà nước là Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam quản lý và có 1 cảng hàng không đầu tư theo hình thức PPP là Cảng hàng không Vân Đồn, Quảng Ninh.
"Giai đoạn 2011-2020, tốc độ phát triển của ngành hàng không Việt Nam rất cao, trung bình 16-18%/năm, được Hiệp hội Vận tải Hàng không quốc tế (IATA) đánh giá là tốc độ phát triển hàng không nhanh nhất khu vực Đông Nam Á, đứng thứ 5 thế giới", ông Dũng cho biết.
Hạ tầng hàng không quá tải so với nhu cầu
Theo đó, lãnh đạo Vụ kế hoạch đầu tư đánh giá tốc độ phát triển rất nhanh của vận tải hàng không đã gây áp lực lên kết cấu hạ tầng cảng hàng không. Giai đoạn 2011-2019, kết quả đầu tư kết cấu hạ tầng hàng không Việt Nam đạt được công suất thiết kế cho các cảng hàng không là 95 triệu lượt hành khách/năm.
"Trong khi thực tế thời điểm cao nhất trước Covid-19 năm 2019, sản lượng thông qua các cảng hàng không của Việt Nam đạt 116,5 triệu hành khách/năm. Như vậy là đã vượt khoảng 20 triệu lượt khách thông qua hệ thống cảng hàng không Việt Nam", ông Dũng đánh giá.
Ông đánh giá với lưu lượng hành khách lớn, một số cảng hàng không đã quá tải hạ tầng, tập trung chủ yếu vào các cảng hàng không đầu mối lớn của cả nước, cụ thể là Cảng hàng không Tân Sơn Nhất, Nội Bài, Cam Ranh, Đà Nẵng. Giai đoạn vừa qua, nguồn vốn của huy động vào các cảng hàng không này chủ yếu là ngân sách và doanh nghiệp Nhà nước.
Chuyên gia hàng không TS Lương Hoài Nam cho rằng cần thu hút xã hội hóa vào các sân bay đang khó khăn, đặc biệt cần có cơ chế chính sách, hỗ trợ ở các hạng mục với các nhà đầu tư tư nhân.
"Thủ tục hành chính phải đơn giản, mạch lạc, và không có những rủi ro cho nhà đầu tư. Nếu chúng ta làm được điều này thì sẽ tạo ra được sự đột phá. Một số nhà đầu tư trước đây đã từ bỏ, nhưng nếu thủ tục đơn giản thì họ sẽ quay trở lại", ông Nam nhận định.
Xã hội hóa sân bay như thế nào?
Theo TS Lương Hoài Nam, đối với việc xã hội hóa sân bay ở Việt Nam thì cần làm rõ ba vấn đề là quan hệ về đất đai, hạ tầng khu bay và việc xử lý tài sản của Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV) tại các cảng hàng không.
Trong đó, vị chuyên gia đánh giá vấn đề khó khăn lớn nhất trong xã hội hóa sân bay là xử lý tài sản của ACV tại các sân bay. Trong báo cáo gần đây nhất của Bộ Giao thông Vận tải gửi Phó thủ tướng Trần Hồng Hà vẫn có hai phương án.
"Một là, ACV sẽ thoái vốn hết khỏi các sân bay. Hai là, ACV tiếp tục ở lại và làm cổ đông chi phối tại các sân bay xã hội hóa. Cá nhân tôi nghĩ không nên đi theo phương án 2, bởi vì hiếm có doanh nghiệp tư nhân nào đưa tiền để ACV chi phối trong các dự án phát triển sân bay", ông Nam nói.
ACV nên thoái vốn để nhà đầu tư tư nhân và các liên doanh đầu tư tư nhân tham gia, vận hành
TS Lương Hoài Nam - chuyên gia hàng không
Ông cho rằng phương án tốt nhất là ACV nên thoái vốn để nhà đầu tư tư nhân và các liên doanh đầu tư tư nhân tham gia, vận hành. Tuy nhiên, vẫn phải có cách để giải quyết tài sản của họ khoa học, minh bạch, không thất thoát, rõ ràng.
Về các giải pháp nhằm thu hút các nhà đầu tư xây dựng hạ tầng hàng không, ông Phạm Ngọc Sáu, nguyên Giám đốc Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn cho rằng cần phải tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi như đơn giản hóa các quy trình đầu tư, giảm bớt các rủi ro về pháp lý, có các chính sách thuế ưu đãi, hấp dẫn.
Bên cạnh đó, quy trình cấp phép, quản lý hoạt động sân bay phải minh bạch. Xây dựng được mô hình đối tác công tư mạnh mẽ, hữu ích. Đồng thời xung quanh sân bay phải có hạ tầng đường bộ, đường sắt, đường thủy kết nối thuận tiện để tăng tiềm năng giao thương, du lịch...
Theo quy hoạch mới được Thủ tướng phê duyệt, Việt Nam sẽ có 30 sân bay bao gồm 14 sân bay quốc tế và 16 sân bay quốc nội. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển hệ thống cảng hàng không đến năm 2030 khoảng 420.000 tỷ đồng, được huy động từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn ngoài ngân sách và các nguồn vốn hợp pháp khác.
Mục tiêu đến năm 2030 tổng sản lượng hành khách qua các cảng khoảng 275 triệu (chiếm 1,5-2% thị phần vận tải giao thông và chiếm 3-4% tổng sản lượng vận tải hành khách liên tỉnh). Tổng sản lượng hàng hóa thông qua các cảng khoảng 4,1 triệu tấn (chiếm 0,05-0,1% thị phần vận tải giao thông).