“Bóng ma” lạm phát đang gây ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động điều hành chính sách tiền tệ của các quốc gia trên thế giới, buộc nhiều nước tăng lãi suất đối phó với sức ép lạm phát. Tuy nhiên, ở Việt Nam, có vẻ như Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chưa có ý định tham gia vào xu hướng trên.
Lạm phát phủ bóng toàn cầu
Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới WB, lạm phát toàn cầu tính đến quý 2/2022 là 7,8%, mức cao nhất kể từ năm 2008 (9,2%). Thực tế, gần 90% các nền kinh tế đang phát triển và tất cả các nền kinh tế phát triển, lạm phát thực tế đều đã cao hơn mục tiêu. Trong đó, tính đến tháng 6/2022, chỉ số giá tiêu dùng CPI tại nước Anh tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước; CPI tại Mỹ tăng 9,1%, khu vực châu Âu tăng 8,6%, Áo tăng 8,5%, Italy tăng 8,0%...
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF xác định 5 nguyên nhân chính của sự gia tăng lạm phát hiện nay.
Thứ nhất, tắc nghẽn trong chuỗi cung ứng, nhu cầu phục hồi nhanh chóng sau đại dịch.
Thứ hai, sự dịch chuyển nhu cầu từ dịch vụ sang hàng hóa: chi tiêu cho hàng hóa đã tăng đáng kể do đại dịch, và một phần hiệu ứng này có thể kéo dài do những thay đổi trong xã hội như sự thay đổi hình thức làm việc theo hướng làm việc từ xa.
Thứ ba, mở rộng tài khóa: khoảng 16,9 nghìn tỷ USD đã được phân bổ để chống lại đại dịch trên khắp thế giới (hầu hết trong số đó là ở các nền kinh tế phát triển).
Thứ tư, thiếu hụt lao động: sự tham gia của lực lượng lao động ở một số quốc gia vẫn còn dưới mức trước đại dịch.
Thứ năm, cung đột quân sự ở Ukraine dẫn đến những cú sốc về nguồn cung trên thị trường năng lượng và thực phẩm. Do hai quốc gia trên là những nhà xuất khẩu lớn tại các thị trường này.
“Tất cả các yếu tố này tạo ra rủi ro đáng kể là lạm phát sẽ tiếp tục tăng và kéo dài hơn dự báo hoặc duy trì ở mức cao trong thời gian dài hơn”, IMF dự báo.
Ngân hàng trung ương Anh BOE cho biết lạm phát có thể duy trì trên 9% trong vài tháng tới, trước khi chạm đỉnh trên 11% trong tháng 10.
Chính phủ Đức dự báo tỷ lệ lạm phát năm 2022 sẽ ở mức 6,1%, do giá dầu, than và khí đốt tăng mạnh dẫn đến giá tiêu dùng tăng cao, tỷ lệ lạm phát sẽ giảm về gần mức bình thường trong năm tới…
Các chuyên gia cũng chỉ ra các yếu tố cho thấy các nước giàu khó có thể sớm trở lại mức lạm phát thấp trước đại dịch. Đó là sức ép tăng lương, kỳ vọng lạm phát của người tiêu dùng và kỳ vọng lạm phát của doanh nghiệp tăng. Người lao động mặc cả để được trả lương cao hơn khi lạm phát tăng cao. Điều này có thể tạo ra một đợt tăng giá khác, khi các công ty cộng thêm các chi phí này vào giá hàng hóa, dịch vụ.
Ngoài ra, sự tăng trưởng tiền lương do phản ánh dự báo của người tiêu dùng và doanh nghiệp cũng ảnh hưởng tới việc đưa mức lạm phát về thời điểm trước dịch bệnh.
Đơn cử, kỳ vọng lạm phát của các nhà bán lẻ đang ở mức kỷ lục tại một phần ba quốc gia châu Âu. Về dự báo lạm phát, trong dự báo mới nhất của mình, Fed dự kiến lạm phát của nền kinh tế lớn nhất thế giới này sẽ giảm từ 5,2% cuối năm nay xuống 2,6% cuối năm tới.
Chấp nhận "uống thuốc đắng"
Để đối phó với tình trạng lạm phát tăng cao, nhiều ngân hàng trung ương đã lần lượt chuyển từ chính sách tiền tệ nới lỏng trong đại dịch Covid-19 sang chính sách thắt chặt thông qua tăng lãi suất chính sách và dừng các chương trình mua trái phiếu.
Theo thông báo của IMF, có tới trên 70 ngân hàng trung ương đã điều chỉnh chính sách tiền tệ. Điển hình là Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Fed đã tăng lãi suất cơ sở từ mức gần 0% lên mức 1,5 - 1,75%, và được kỳ vọng sẽ tăng tiếp lên mức từ 2,25 – 2,5% trong cuộc họp diễn ra vào giữa tuần này.
Trong bốn cuộc họp còn lại trong năm nay, Fed dự kiến nâng lãi suất lên mức từ 3,25% - 3,5%, cao hơn nhiều so với dự kiến trước đó. Fed khẳng định mạnh mẽ lập trường sẽ đưa lạm phát trở lại mức mục tiêu 2,0% và mức tăng trưởng kinh tế cùng thị trường lao động có thể sẽ bị kìm hãm trong ngắn hạn.
Cuối tuần vừa qua, ngân hàng trung ương Châu Âu ECB cũng đã bất ngờ tăng 50 điểm cơ bản đối với tất cả các loại LSCS của cơ quan này. Theo đó, lãi suất tái cấp vốn tăng từ 0,0% lên 0,50%; lãi suất cho vay cận biên tăng từ 0,25% lên 0,75% và lãi suất tiền gửi tăng từ -0,5% lên 0,0%. Đây là lần tăng lãi suất đầu tiên của ECB kể từ năm 2011.
Trước đó, ngân hàng trung ương Anh BOE là ngân hàng trung ương lớn đầu tiên bắt đầu tăng lãi suất vào tháng 12/2021 và liên tục tăng lãi suất kể từ đó từ mức 0,1% lên đến mức 1,25% hiện nay.
Việc hàng loạt ngân hàng trung ương trên thế giới cùng nâng lãi suất sẽ gây ra nhiều tác động tới kinh tế và thị trường tài chính thế giới.
Theo đó, thị trường có nguy cơ rối loạn hơn khi thời đại của lãi suất thấp kết thúc. Các quốc gia và công ty sẽ phải cố gắng điều chỉnh để thích nghi với việc dòng vốn chuyển hướng, sự thay đổi của dòng vốn sẽ ảnh hưởng đến khả năng các quốc gia và doanh nghiệp bán được trái phiếu, cổ phiếu để huy động vốn.
Còn với thị trường tài chính, khi lãi suất tăng, giá cổ phiếu và các tài sản khác có thể giảm trong dài hạn. Vì người gửi tiết kiệm có thể nhận được tiền lời cao hơn cho các khoản đầu tư ít rủi ro hơn như trái phiếu chính phủ.
Mặt khác, khi tăng lãi suất, một số quốc gia có thể rơi vào suy thoái kinh tế khi người tiêu dùng và các công ty giảm chi tiêu.
Trong báo cáo Triển vọng Kinh tế Toàn cầu tháng 6, WB dự báo tăng trưởng toàn cầu chậm lại mạnh trong năm nay nhưng vẫn ở mức tích cực. Tuy nhiên, WB cảnh báo vẫn có nguy cơ đáng kể về tình trạng tăng trưởng đình trệ và lạm phát vẫn ở mức cao.
Vì sao Việt Nam vẫn duy trì lãi suất thấp?
Trước bối cảnh các ngân hàng trung ương đồng loạt tăng lãi suất, Việt Nam như một “làn gió ngược”. Hiện tại, nhà điều hành tiền tệ tại Việt Nam vẫn chưa cho thấy động thái cũng như ý định tăng lãi suất trong thời gian tới.
TS. Cấn Văn Lực, Kinh tế trưởng BIDV cho rằng, lạm phát tại Việt Nam khác với các quốc gia khác, bởi lẽ không phải do yếu tố tiền tệ mà bởi chi phí đẩy. Do đó, Ngân hàng Nhà nước có tăng lãi suất điều hành cũng chưa chắc đã phát huy tác dụng, thậm chí còn đi ngược với chủ trương của Chính phủ về hỗ trợ phục hồi, phát triển kinh tế.
“Tăng lãi suất hiện nay có thể làm kinh tế suy thoái mà lại có thể không cứu được lạm phát, vì lạm phát hiện nay chủ yếu do chi phí đẩy, đứt gãy chuỗi cung ứng. Tăng lãi suất chưa chắc là thuốc đặc trị mà còn gây phản ứng phụ”, ông Lực nhấn mạnh.
Cùng quan điểm, ông Michael Kokalari, chuyên gia Kinh tế trưởng VinaCapital dự báo, khó có khả năng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tăng lãi suất chính sách trong năm nay.
Dự báo trên được đưa ra trên cơ sở lạm phát tại Việt Nam vẫn duy trì ở mức thấp so với thế giới. Cụ thể, trái với làn sóng lạm phát đang lan rộng trên toàn cầu, VinaCapital cho rằng lạm phát tại Việt Nam vẫn ở mức rất khiêm tốn, chỉ 3,4% so với cùng kỳ vào cuối tháng 6/2022. Mức lạm phát khiêm tốn này cung đã hỗ trợ một phần cho giá trị của đồng VND, vốn đã mất giá chỉ 3% so với đầu năm, trong khi giá trị của đồng Đô la Mỹ tăng 13% - dựa trên chỉ số DXY.
“Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam có khả năng duy trì tốt trong phạm vi nhắm đến. Tức lạm phát trung bình của năm không vượt quá 4% nên rất khó có khả năng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tăng lãi suất chính sách trong năm nay - trái ngược với tất cả thị trường mới nổi trong khu vực đều đang tăng lãi suất”, ông Michael Kokalari đánh giá.