Với nhiều nền kinh tế, tỷ lệ lạm phát gia tăng là một nỗi lo cho người dân cũng như chính phủ khi giá cả hàng hóa đi lên ảnh hưởng đến sức mua của thị trường.
Thế nhưng câu chuyện lạm phát tại Nhật Bản lại khá phức tạp khi chính phủ nước này đang mong giá cả đi lên.
Tờ Wall Street Journal (WSJ) cho hay trong suốt 1/4 thế kỷ qua, nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới đã tìm mọi cách để kích thích lạm phát nhằm thoát khỏi đà giảm tốc tăng trưởng cũng như rủi ro giảm phát.
Thế rồi đại dịch và những xung đột địa chính trị diễn ra lại đang khiến mong muốn của chính quyền Tokyo thành hiện thực.
Kể từ cuộc khủng hoảng cuối thập niên 1990, nền kinh tế Nhật Bản bị rơi vào cái bẫy giảm phát khi tăng trưởng giảm tốc còn giá cả hàng hóa đi ngang hoặc thậm chí là giảm so với trước.
Thông tin này có thể là tích cực với Phương Tây vốn đã quá sợ hãi với các cuộc khủng hoảng kinh tế gây siêu lạm phát, thế nhưng nó lại chẳng mấy hay ho gì ở Nhật Bản.
Giá cả hàng hóa không tăng ảnh hưởng đến doanh thu của doanh nghiệp và gián tiếp tác động đến tiền lương và sức cầu trên thị trường, qua đó ảnh hưởng ngược lại và tạo thành vòng luẩn quẩn.
Tâm lý hạn chế chi tiêu vì giá rẻ và nỗi ám ảnh khủng hoảng cuối thập niên 1990, tích cực tiết kiệm thay vì đầu tư của người tiêu dùng lẫn doanh nghiệp đã khiến chính phủ Nhật Bản đau đầu suốt nhiều năm.
Thế rồi khi đại dịch làm đứt gãy chuỗi cung ứng, xung đột địa chính trị ảnh hưởng đến giá dầu và những lo lắng về khủng hoảng hậu đại dịch đã khiến lạm phát tại Nhật Bản dần đi lên, kéo theo đó là tiền lương.
“Những thông tin tiêu cực này hóa ra lại là tin vui. Nhờ những yếu tố thảm họa đó mà tâm lý lo sợ giảm phát của người dân đang dần biến mất”, cố vấn kinh tế Etsuro Honda của Cố Thủ tướng Shinzo Abe nhận định.
Theo WSJ, lạm phát tại Nhật Bản đang ở mức 3% và tiền lương thì nhích nhẹ dần lên dù chưa theo kịp đà tăng giá cả.
Dẫu vậy Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BoJ) lại đầy lạc quan khi kỳ vọng lạm phát cơ bản sẽ ở mức 2,8% trong năm tài khóa này, tương đương năm tài khóa thứ 3 liên tiếp có mức lạm phát cao hơn ngưỡng mục tiêu 2%.
Mặc dù Nhật Bản vẫn chưa thoát hoàn toàn khỏi những tổn thương kinh tế, hệ lụy từ cuộc khủng hoảng cuối thập niên 1990 nhưng nhiều chuyên gia kỳ vọng rằng đây sẽ là cơ hội để quốc gia này rũ bỏ được ám ảnh giảm phát.
Dịch bệnh giảm phát
Tờ WSJ cho hay cô Chihiro Ohno trong nhiều năm đã từng muốn mua một đôi bông tai nhưng chưa quyết định được khi tâm lý tiết kiệm vẫn còn ám ảnh, trong khi giá cả thì chẳng hề tăng nên không có áp lực chi tiêu.
Thế rồi khi cô Ohno kiểm tra thấy đôi bông tai này tăng hơn 50% so với trước đây, cô gái 27 tuổi đã vội vàng mua chúng, nhất là khi chủ cửa hàng cảnh báo lạm phát sẽ khiến giá còn tăng nữa.
“Tôi sẽ còn quay lại cửa hàng mua tiếp ngay khi lương của tôi được tăng”, cô Ohno thú nhận.
Cô Ohno hiện làm bán thời gian tại một tiệm trà và người chủ Hiroyuki Okami cho biết chắc chắn sẽ tăng lương. Đây đã là lần thứ 2 trong năm nay ông Okami tăng lương cho nhân viên sau khi người tiêu dùng Nhật Bản chấp nhận chi tiêu nhiều hơn trong đợt lạm phát trước đó.
Chuyên gia kinh tế Tsutomu Watanabe của trường đại học Tokyo nhận định người dân Nhật Bản từng quen với việc giá cả đi ngang và chẳng có sức ép tiêu dùng thì giờ đây mọi chuyện đã khác.
Việc mọi thứ sẽ còn tăng giá cao hơn nữa buộc nhiều người chấp nhận chi tiêu thay vì tiết kiệm, qua đó thúc đẩy tiêu dùng, tăng doanh thu và tác động tích cực cho toàn nền kinh tế.
Một yếu tố nữa khiến người dân Nhật Bản chịu chi hơn là hàng trăm tỷ USD tiền hỗ trợ của chính phủ suốt 2 năm qua cho đại dịch, qua đó khiến nhiều hộ gia đình có thừa tiền tiết kiệm để chi tiêu.
Trong khi khoản tiền hỗ trợ 1,9 nghìn tỷ USD của Mỹ năm 2021 khiến nhiều người chỉ trích là làm gia tăng lạm phát lên mức cao, buộc Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) phải cấp tập nâng lãi suất thì nước đi tương tự của Nhật Bản lại nhận được khen chê trái chiều.
Quay ngược dòng lịch sử, Nhật Bản từng đối mặt với lạm phát hơn 20% trong cuộc khủng hoảng dầu mỏ thập niên 1970 nhưng rồi dần ổn định lại vào thập niên 1980.
Thế nhưng với bong bóng bất động sản, chứng khoán xì hơi vào cuối thập niên 1990, lạm phát ở đây tiếp tục đi xuống, đẩy nền kinh tế này vào rủi ro giảm phát.
Năm 1995, lực lượng lao động của Nhật Bản dần đi xuống do dân số lão hóa nhanh. Đến khi cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 diễn ra thì nền kinh tế này đã hoàn toàn rơi vào giảm phát.
Hậu quả là dù BoJ có hạ lãi suất xuống mức âm dưới 0% thì người dân cũng chẳng chịu chi tiêu mà chỉ thích tiết kiệm, còn tăng trưởng thì ở mức thấp.
Mặc dù giá cả không tăng khiến người tiêu dùng hưởng lợi nhưng chúng lại ảnh hưởng tiêu cực đến toàn nền kinh tế.
Doanh nghiệp ít chịu đầu tư, cắt giảm tiền lương và niềm tin của người tiêu dùng đi xuống.
Xin được nhắc rằng trong cuộc Đại khủng hoảng 1930 ở Mỹ, chỉ số giá tiêu dùng đã giảm hơn 25% sau thời kỳ siêu lạm phát và chẳng người dân nào vui vẻ nổi khi công ty thất thu phải cắt giảm việc làm lẫn tiền lương.
Chính Cựu Thống đốc Haruhiko Koruda khi nhậm chức vào năm 2013 đã phải thừa nhận giảm phát như một “dịch bệnh” dai dẳng với nền kinh tế Nhật.
“Loại dịch bệnh này không gây nhiều đau đớn cho bệnh nhân nhưng lại dần giết chết người bệnh trong thầm lặng sau khi phá hủy toàn bộ cơ thể”, Cựu Thống đốc Koruda cảnh báo vào năm 2016.
Cố gắng vì lạm phát
Năm 1999 là năm đầu tiên BoJ thực hiện lãi suất 0%, đồng thời tung ra chương trình nới lỏng định lượng (QE) khi mua lại trái phiếu ngân hàng thương mại để bơm tiền vào nền kinh tế và khuyến khích cho vay.
Đến khi Cựu Thống đốc Kuroda lên nắm quyền, ông quyết định mở rộng hơn nữa các chính sách này nhằm hướng đến việc thúc đẩy lạm phát lên mức 2% mục tiêu trong vòng 2 năm.
Thế nhưng giá cả vẫn không chịu tăng và BoJ đã hạ lãi suất xuống dưới 0% trong ngắn hạn để làm mọi cách đưa Nhật Bản thoát khỏi cái bẫy giảm phát.
Nhờ hàng loạt những chính sách mạnh tay mà lạm phát đã ở mức dương, nhưng vẫn thấp hơn 2% mục tiêu.
Dù nền kinh tế này tạo ra được hàng triệu việc làm mới dưới thời Cố Thủ tướng Shinzo Abe nhưng mức lương lại không tăng, qua đó cho thấy tâm lý của người dân vẫn còn sợ hãi giảm phát và thích tiết kiệm hơn tiêu dùng lẫn đầu tư.
Xin được nhắc rằng việc tung lượng tiền lớn vào nền kinh tế khiến nợ công NHật Bản đạt gần 10 nghìn tỷ USD trong giai đoạn này, tương đương 260% GDP và cao hơn nhiều mức 120% GDP nợ công của Mỹ.
May mắn thay, đại dịch và xung đột địa chính trị đã khiến mọi thứ thay đổi.
Tháng 4/2022, lạm phát của Nhật Bản đạt 2,5%, cao hơn mức 2% mục tiêu, trở thành tin mừng với BoJ.
Nhiều công ty Nhật Bản từng giữ giá hàng chục năm đã phải xin lỗi vì nâng giá lần đầu tiên trong lịch sử nhưng điều may mắn là người tiêu dùng vẫn chấp nhận sự thật này.
Ví dụ như ông chủ Okami của tiệm trà ở trên, dù đã tăng giá 25% vào tháng 9/2022 vì giá nguyên liệu đầu vào cùng nhiều thứ tăng lên, nhưng doanh số vẫn ổn định đi lên. Thậm chí ông Okami còn dự định mua thêm thiết bị để mở rộng kinh doanh.
Tương tự, chủ nhà hàng Ayumi Kinoshita ở Tokyo cho biết mình đã tăng giá thực đơn thêm 20% nhưng hầu hết khách hàng vẫn chấp nhận điều này.
“Phần lớn mọi người đều đồng tình vì cho rằng đây là điều không tránh khỏi”, cô Kinoshita cho hay.
Cuối năm 2022, cô Kinoshita đã nâng lương 8% cho nhân viên và đang xem xét tiếp tục nâng nữa trong năm nay.
Nhiều công ty khác cũng cho biết đã và đang tăng lương cho nhân viên, đồng thời đầu tư thêm máy móc nhằm cải thiện sản phẩm sao cho xứng với đà tăng giá.
Chủ tịch Kazuhiro Sakurai của hãng bia Asahi Shuzo cho biết sau khi công ty tăng lương gấp đôi, lượng nhân viên kết hôn và có con của hãng cũng tăng lên và gây dựng được một tâm lý lao động cực kỳ tích cực.
Bên cạnh đó, việc đồng Yên yếu cũng khiến giá bán lẻ của nhiều mặt hàng tăng lên, đi kèm với đó là tác động tâm lý đến người tiêu dùng cũng như doanh nghiệp.
Báo cáo của NLI Research Institute cho thấy tổng mức đầu tư của các doanh nghiệp Nhật Bản trong năm nay sẽ đạt 100 nghìn tỷ Yên, tương đương 665 tỷ USD. Nền kinh tế này đã tăng trưởng 4,8% trong quý II/2023 và dự kiến sẽ còn tăng mạnh nữa nhờ lạm phát.
*Nguồn: WSJ