Tại hội thảo Kết nối kinh doanh: Xây dựng và Bảo hộ nhãn hiệu nhằm phát triển thương hiệu nông sản Việt Nam” diễn ra cuối tuần qua, ông Nguyễn Quốc Toản, Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, cho biết Việt Nam có lợi thế và tiềm năng trong sản xuất nông nghiệp, thuận lợi để sản xuất ra các sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới có chất lượng cao, đa dạng, đặc trưng theo từng vùng, miền. Tuy nhiên, số lượng sản phẩm nông sản của Việt Nam đã xây dựng được thương hiệu và được đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý cả trong nước và thị trường quốc tế còn hạn chế.
Nhận thức đây là một phần quan trọng trong chuỗi giá trị của kinh tế nông nghiệp, ông Toản cho rằng: “Việc đánh giá cơ hội, thách thức cũng như phổ biến các quy trình thủ tục đăng ký bảo hộ nhãn hiệu nông sản đối với một số thị trường trọng điểm là hết sức quan trọng, cần thiết đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời kỳ hội nhập sâu rộng như hiện nay”.
CẢ NƯỚC CÓ 1.682 NHÃN HIỆU TẬP THỂ NÔNG SẢN ĐƯỢC BẢO HỘ
Bà Lê Thị Thu, Phó Giám đốc Trung tâm Thẩm định chỉ dẫn địa lý và nhãnhiệu quốc tế của Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ), cung cấp thông tin khá tổng quan về chỉ dẫn địa lý cho các mặt hàng nông lâm thủy sản. Tính đến 1/8/2022, cả nước đã có 141 đơn đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho các mặt hàng nông lâm thủy sản, trong đó đã cấp chứng nhận bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho 116 sản phẩm.
Những tỉnh có nhiều chỉ dẫn địa lý được bảo hộ nhất bao gồm: Yên Bái (8 chỉ dẫn địa lý); Hà Giang (8 chỉ dẫn địa lý); Thanh Hóa 6 (chỉ dẫn địa lý); Bến Tre (5 chỉ dẫn địa lý).
Cả nước cũng đã có 1.682 chứng nhận tập thể đã được cấp. Các địa phương có nhiều nhãn hiệu tập thể được bảo hộ như: Quảng Nam có 91 nhãn hiệu tập thể; Hải Phòng với 75 nhãn hiệu tập thể; Bắc Giang có 67 nhãn hiệu tập thể; An Giang có 50 nhãn hiệu tập thể được bảo hộ.
Một số sản phẩm có chứng nhận chỉ dẫn địa lý hoặc nhãn hiệu tập thể đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, đang xuất khẩu nhiều vào các thị trường cao cấp trên thế giới như: Nước mắm Phú Quốc, Chè hữu cơ shan tuyết Phìn Hồ, Chè Thái Nguyên, Hồ tiêu Gia Lai, Cà phê Buôn Mê Thuột, Vải thiều Lục Ngạn.
Ông Paul Weijers, Cố vấn cao cấp của Dự án USAID LinkSME, cho biết nhằm nâng cao thương hiệu nông sản Việt, Dự án triển khai các hoạt động tư vấn quy trình thủ tục đăng ký bảo hộ nhãn hiệu đối với nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế; chia sẻ kinh nghiệm về xây dựng, bảo hộ và phát triển thương hiệu cho sản phẩm nông nghiệp.
Dự án cũng tư vấn kỹ thuật về các vấn đề và quy trình trong việc bảo hộ nhãn hiệu và xây dựng thương hiệu cho sản phẩm nông nghiệp trên thị trường quốc tế.
Bà Phan Trần Hồng Vân, Phó Tổng Thư ký kiêm Chánh Văn phòng Hiệp hội cao su Việt Nam, nhận định chất lượng mủ cao su của nước ta chưa ổn định và chưa đồng đều, do đó, cao su thiên nhiên chưa được định vị vững chắc đối với người sử dụng trong và ngoài nước.
Cục Sở hữu trí tuệ đã cấp Giấy chứng nhận Nhãn hiệu “Cao su Việt Nam/ Viet nam Rubber” vào năm 2015. Sau đó, Hiệp hội Cao su Việt Nam đã đăng ký bảo hộ thành công Nhãn hiệu chứng nhận tại 5 quốc gia và vùng lãnh thổ: Ấn Độ, Trung Quốc, Đài Loan, Campuchia, Lào.
Tính đến nay, Hiệp hội Cao su Việt Nam đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng Nhãn hiệu chứng nhận “Cao su Việt Nam” cho 17 doanh nghiệp với 82 sản phẩm của 29 nhà máy.
LÀM GÌ ĐỂ CÁC NHÃN HIỆU TẬP THỂ KHÔNG BỊ “CHẾT YỂU”
Tại hội thảo, các chuyên gia của Cục Sở hữu trí tuệ và Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản đã chỉ ra một số vấn đề tồn tại đối với hoạt động bảo hộ và sử dụng chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể. Đó là, chưa có các quy định chi tiết về quản lý đối với đối tượng chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể; sự phối hợp chưa chặt chẽ và liên tục giữa Bộ Khoa học Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương.
"Một số chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể chưa phát huy được vai trò là chủ sở hữu do không có chức năng kinh doanh, chủ yếu là cơ quan nhà nước (Sở Khoa học công nghệ, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND cấp huyện), chưa có sự tách biệt giữa quản lý nhà nước và mối quan hệ dân sự theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ".
Bà Lê Thị Thu, Phó Giám đốc Trung tâm Thẩm định chỉ dẫn địa lý và nhãnhiệu quốc tế.
Ở các địa phương, vẫn thiếu khảo sát xác định nhu cầu của người sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng. Do đó, lựa chọn sản phẩm đăng ký chưa phù hợp, chưa gắn với thực tiễn và nhu cầu thị trường. Nhiều nơi chỉ đăng ký bảo hộ sản phẩm tươi, nguyên liệu thô, những sản phẩm này ít được chế biến, thời gian bảo quản ngắn nên chỉ dẫn địa lý không phát huy được tác dụng.
Nhiều chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể đã không chủ động về nguồn lực để thực hiện việc quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể, kỹ năng về xúc tiến thương mại rất kém.
Một số chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể là hợp tác xã, được thành lập khi có sự hỗ trợ từ các dự án, nên các hợp tác xã này không tổ chức hoạt động gì khi kết thúc dự án, hoặc hoạt động rất cầm chừng. Dẫn đến nhãn hiệu tập thể bị “chết yểu”.
Từ thực tế trên, các doanh nghiệp, chuyên gia kiến nghị các cơ quan chức năng nhà nước cần hoàn thiện các quy định pháp luật cho việc bảo hộ, quản lý và phát triển thương hiệu dựa trên các quyền sở hữu trí tuệ đối với địa danh dùng cho các sản phẩm nông nghiệp đặc thù. Các cơ quan nhà nước cũng cần nâng cao vai trò của quản lý nhà nước về kiểm soát sử dụng nhãn hiệu trên thị trường.
Về phía các đơn vị sản xuất nông nghiệp, hợp tác xã, nên xây dựng và phát triển thương hiệu phải dựa trên các giá trị cốt lõi của sản phẩm, dịch vụ. Đó là chất lượng đặc thù, giá trị khác biệt, uy tín, độ an toàn của sản phẩm. Cần thúc đẩy hình thành các chuỗi giá trị sản phẩm mang nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, chỉ dẫn địa lý để đưa sản phẩm cuối cùng ra đến thị trường.
Khi bán sản phẩm cần gắn nhãn mác hay thương hiệu sản phẩm địa phương, vùng miền và quốc gia (không bán hàng thô, hàng nguyên liệu); đồng thời tăng cường đa dạng hóa sản phẩm để tăng của cạnh tranh trên thị trường và cũng giúp giải quyết các sản phẩm tồn đọng tránh “được mùa thì rớt giá”.