Vừa qua, ông Joonsuk Park, Giám đốc Khối Kinh doanh Quốc tế, Khối Dịch vụ Ngân hàng Doanh nghiệp, HSBC Việt Nam, đã có bài viết nhận định về tiềm năng của dòng vốn FDI nội khối châu Á.
Theo ông, dòng vốn FDI khối nội địa châu Á là những nhà đầu tư tiềm năng, hiểu rõ Việt Nam cả về mặt văn hóa và cách thức kinh doanh, “thu hút các doanh nghiệp đa quốc gia trong nội khối châu Á cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam không chỉ nâng tầm giá trị gia tăng của các sản phẩm xuất khẩu, mà đồng thời có lợi cho việc mở rộng cả chiều sâu và chiều rộng của thị trường tiêu thụ nội địa”.
“Việt Nam đã thành công trở thành một thị trường cận biên hàng đầu tại châu Á”
Theo ông Joonsuk Park đánh giá, ngày nay, Việt Nam đã thành công trở thành một thị trường cận biên hàng đầu tại châu Á và là một nền kinh tế tập trung vào xuất khẩu. Các công ty đa quốc gia cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam có đặc quyền được tự do tiếp cận 15 trong số các thị trường nhóm G20.
Chính phủ Việt Nam những năm qua đã tích cực tìm cách tận dụng các Hiệp định tự do thương mại (FTA) như một công cụ quan trọng tạo nền tảng thuận lợi cho tăng trưởng xuất khẩu của đất nước.
Bên cạnh đó, thị trường tiêu thụ nội địa của Việt Nam cũng là một đấu trường quan trọng không kém đối với các công ty đa quốc gia khi tiến vào đây.
“Theo nghiên cứu của HSBC, đến năm 2030, thị trường tiêu dùng nội địa của Việt Nam sẽ vượt xa các thị trường Thái Lan, Anh và Đức.”- Giám đốc HSBC Việt Nam cho biết.
Song song với sự nỗ lực của Chính phủ cùng sức tiêu thụ nội địa, các nhà đầu tư FDI hoặc các công ty đa quốc gia trong khu vực và toàn cầu đang hoạt động tại Việt Nam cũng đóng góp hiệu quả cho hơn 80% tổng kim ngạch xuất khẩu ra khỏi Việt Nam và hơn 25% giá trị đầu tư trong nước. Trong số các công ty đa quốc gia đó, phần lớn là các công ty trong nội khối châu Á.
Các mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam bao gồm điện thoại di động, hàng điện tử, máy móc nói chung, hàng may mặc, giày dép, sản phẩm gỗ,… và đối với tất cả các lĩnh vực này, các công ty đa quốc gia châu Á như Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản, Thái Lan và Singapore đóng vai trò không thể thiếu.
Ông Joonsuk Park cho biết, việc thu hút các doanh nghiệp đa quốc gia trong nội khối châu Á cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam không chỉ nâng tầm giá trị gia tăng của các sản phẩm xuất khẩu, mà đồng thời có lợi cho việc mở rộng cả chiều sâu và chiều rộng của thị trường tiêu thụ nội địa. Những nhà đầu tư hàng đầu trong khu vực châu Á này hiện vẫn tiếp tục duy trì sự tập trung vào Việt Nam.
“Theo dõi và hỗ trợ dòng vốn đầu tư từ các quốc gia châu Á, chúng tôi rất vui khi thấy dòng vốn đầu tư hàng năm đang duy trì phong độ ổn định khi nhiều công ty đa quốc gia tiếp cận và hoạt động tại Việt Nam. Bước sang năm 2023, chúng tôi đã chứng kiến một số công ty đa quốc gia toàn cầu ở châu Á thể hiện quan tâm đến Việt Nam, tham gia vào nhiều lĩnh vực bao gồm bán lẻ, chất bán dẫn, điện tử, linh kiện di động, nhựa, năng lượng tái tạo, logistics, v.v., họ đang tìm cách mở rộng hoặc đầu tư mới vào đây.”
Những cản trở và thách thức trong tương lai
Tuy nhiên, cũng giống như nhiều quốc gia và thị trường khác, COVID cũng đã và đang ít nhiều tác động đến Việt Nam. Từ năm 2019 đến năm 2020, lượng vốn FDI mới đăng ký vào Việt Nam đã giảm khoảng 25%.
Năm 2021, mức đầu tư giữ không thay đổi trong khi vào năm 2022, các khoản đầu tư tiếp tục giảm nhẹ.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc này, việc sớm mở cửa đất nước vào cuối năm 2021 ngay lập tức chưa thể thu hút dòng vốn FDI trở lại. Việc lập kế hoạch và quyết định đầu tư đơn giản là cần có thời gian, chưa kể đến việc Việt Nam cũng đã trở nên chọn lọc hơn khi nhắm đến các khoản đầu tư có giá trị gia tăng cao hơn, chứ không hoàn toàn dễ dàng như trước đây.
Thêm vào đó, các yếu tố như rủi ro địa chính trị gia tăng, áp lực lạm phát gia tăng, chi phí vay tăng và suy thoái thương mại toàn cầu đang đè nặng lên các quyết định đầu tư của giám đốc quản lý vốn và giám đốc tài chính của những doanh nghiệp đa quốc gia trong khu vực và trên toàn cầu.
“Dẫu vậy, quan điểm trung và dài hạn của các công ty về Việt Nam vẫn vững chắc. Nhiều nhà đầu tư FDI hiện tại và tiềm năng đều có cùng quan điểm rằng Việt Nam sẽ tiếp tục hưởng lợi nhờ có hệ sinh thái sản xuất đã được thiết lập, chi phí cạnh tranh, số lượng công nhân lành nghề ngày càng tăng, sự hỗ trợ pháp lý tiến bộ, tài sản và thu nhập của tầng lớp trung lưu ngày càng tăng, cũng như lợi thế từ việc tận dụng chiến lược Trung Quốc.” Ông Joonsuk Park chia sẻ
Theo HSBC dự đoán, GDP Việt Nam sẽ tăng 5,8% vào năm 2023. Tuy nhiên, nhiều thách thức vẫn còn đó.
Suy thoái thương mại toàn cầu đang ảnh hưởng đến xuất khẩu Việt Nam, lạm phát gia tăng gây cản trở tiêu dùng trong nước, và trong khi việc Trung Quốc mở cửa trở lại dự kiến sẽ tác động tích cực đến dòng vốn FDI, xuất khẩu và thu hút khách du lịch, 2023 vẫn sẽ là một năm có nhiều thách thức.
Do đó, việc thu hút trở lại dòng vốn FDI vào thị trường Việt Nam có tầm quan trọng thiết yếu đối với cả tăng trưởng xuất khẩu và thị trường tiêu thụ nội địa. Trong bối cảnh đó, không thể đánh giá thấp tầm quan trọng của dòng vốn từ nội khối châu Á.
Trong khi các công ty đa quốc gia phương Tây đang vật lộn với những thách thức từ kinh tế vĩ mô và căng thẳng địa chính trị, đây có thể là thời điểm thuận lợi để Việt Nam tập trung nỗ lực thu hút thêm nữa các dòng vốn FDI trong khu vực nội khối châu Á.
“Có nhiều biện pháp có thể được áp dụng để tăng cường dòng vốn FDI và chính phủ cũng hiện đang có nhiều nỗ lực để tiến hành. Nhiệm vụ lúc này là phải tăng tốc gấp đôi tốc độ tiến hành để củng cố niềm tin của nhà đầu tư vào các khung pháp lý. Việt Nam rõ ràng đang trên hành trình chuyển đổi để trở thành một thị trường mới nổi. Đầu tư FDI tích cực sẽ hỗ trợ đẩy nhanh hành trình đó.”