Từ bỏ hy vọng được tăng lương, 3 năm trước, Tokiyoshi đã quyết định viết sách.
"Tôi cảm thấy may mắn vì viết và bán sách mang lại cho mình một nguồn thu nhập khác. Nếu không nhờ công việc này, tôi đã mãi mắc kẹt trong mức lương cũ", Tokiyoshi, hiện 54 tuổi, nói.
Tokiyoshi là một phần của thế hệ lao động hầu như không được tăng lương trong suốt sự nghiệp tại Nhật Bản. Giờ đây, khi giá cả tăng sau nhiều thập kỷ, nền kinh tế lớn thứ ba thế giới đang buộc phải tính đến vấn đề mức sống giảm sút, các công ty phải đối mặt với áp lực tăng lương cho nhân viên.
Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida đang kêu gọi doanh nghiệp giúp đỡ người lao động theo kịp chi phí sinh hoạt ngày càng cao. Hồi tháng 1, ông đề nghị các công ty tăng lương ở mức cao hơn tỷ lệ lạm phát.
"Ở một quốc gia mà tiền lương danh nghĩa không tăng trong hơn 30 năm, tiền lương thực tế đang giảm khá nhanh do lạm phát", Stefan Angrick, nhà kinh tế cấp cao tại Moody's Analytics ở Tokyo, nhận định.
Vấn đề lâu dài
Năm 2021, mức lương trung bình hàng năm ở Nhật Bản là 39.711 USD, so với 37.866 USD vào năm 1991, theo dữ liệu từ Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD).
Điều đó có nghĩa là người lao động chỉ được tăng lương dưới 5%, so với mức tăng 34% ở các nền kinh tế khác thuộc nhóm G7, chẳng hạn như Pháp và Đức, trong cùng thời kỳ.
Các chuyên gia đã chỉ ra hàng loạt nguyên nhân khiến tiền lương hầu như không tăng tại xứ sở hoa anh đào.
Lý do đầu tiên là giảm phát (tình trạng mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống liên tục) bắt đầu vào giữa những năm 1990 và sự bùng nổ của bong bóng tài sản trong nước.
Muge Adalet McGowan, nhà kinh tế cấp cao của văn phòng Nhật Bản tại OECD, cho biết: "Trong 20 năm qua, về cơ bản, không có sự thay đổi nào trong lạm phát giá tiêu dùng. Trước đây, người tiêu dùng Nhật Bản sẽ không bị ảnh hưởng đến hầu bao và cảm thấy không nhất thiết phải đòi hỏi mức lương cao hơn".
Shintaro Yamaguchi, giáo sư kinh tế tại Đại học Tokyo, dự đoán khi lạm phát tăng lên, mọi người có thể bắt đầu phàn nàn "mạnh mẽ" hơn về việc không được tăng lương.
Thị trường lao động thay đổi
Các chuyên gia cho rằng tiền lương tại Nhật Bản cũng bị ảnh hưởng vì đất nước này đã tụt hậu trong một thước đo khác: tỷ lệ năng suất.
Theo ông Yamaguchi, sản lượng của đất nước, được đo bằng số lượng công nhân đóng góp vào GDP của một quốc gia mỗi giờ, thấp hơn mức trung bình của OECD và "có lẽ là lý do quan trọng nhất" dẫn đến mức lương cố định.
Bà McGowan nói: "Nhìn chung, mức tăng tiền lương và năng suất đi đôi với nhau. Khi năng suất tăng, các công ty hoạt động tốt hơn nên họ có thể đưa ra mức lương cao hơn".
Bà cho biết dân số già hóa của Nhật Bản cũng là một nguyên nhân bổ sung vì lực lượng lao động lớn tuổi có xu hướng tương đương với năng suất và tiền lương thấp hơn.
Cách mọi người làm việc cũng đang thay đổi. Theo bà McGowan, vào năm 2021, gần 40% tổng lực lượng lao động của Nhật Bản làm việc bán thời gian hoặc làm việc không theo giờ, tăng từ khoảng 20% vào năm 1990.
"Khi tỷ lệ những người lao động không thường xuyên này tăng lên, tất nhiên mức lương trung bình cũng thấp vì họ kiếm được ít tiền hơn", bà nói.
Việc làm trọn đời
Theo các nhà kinh tế học, văn hóa làm việc độc đáo của Nhật Bản cũng đang góp phần vào tình trạng trì trệ tiền lương.
Ông Angrick cho biết nhiều người làm việc trong hệ thống "công việc trọn đời" truyền thống, nơi các công ty cố gắng hết sức để giữ chân người lao động cho đến khi họ về hưu.
Các công ty thường rất thận trọng trong việc tăng lương, vì đó là phương tiện duy nhất để níu kéo người lao động khi tổ chức gặp khó khăn, khủng hoảng.
Theo bà McGowan, hệ thống trả lương dựa trên thâm niên, trong đó người lao động được trả lương dựa trên cấp bậc và thời gian làm việc hơn là hiệu suất lao động, đã hạn chế lao động nhảy việc, điều thường giúp tăng lương ở các quốc gia khác.
Jesper Koll, chiến lược gia và nhà đầu tư nổi tiếng của Nhật Bản, từng nói với CNN: "Vấn đề lớn nhất trong thị trường lao động Nhật Bản là việc khăng khăng duy trì chế độ trả lương theo thâm niên. Chỉ khi mọi người được trả lương dựa trên thành tích, thì mới có nhiều thay đổi trong công việc và thăng tiến về sự nghiệp".
Đầu năm nay, ông Kishida đã cảnh báo nền kinh tế đang bị đe dọa, nói rằng Nhật Bản có nguy cơ rơi vào "đình lạm" nếu mức lương không đuổi kịp mức tăng giá của hàng hóa.
Đình lạm, trong kinh tế học, chỉ hiện tượng nền kinh tế đình đốn trong khi lạm phát cao.
Tăng lương từ 3% trở lên một năm đã là mục tiêu cốt lõi của chính quyền Kishida. Giờ đây, thủ tướng muốn tiến thêm một bước nữa, với kế hoạch tạo ra một hệ thống chính thức hơn.
Khi được hỏi chi tiết, một phát ngôn viên của chính phủ nói rằng "các biện pháp kinh tế toàn diện mới sẽ bao gồm hỗ trợ mở rộng để tăng lương, tích hợp với cải thiện năng suất".
Một đại diện của Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi cho biết nhà chức trách có kế hoạch đưa ra hướng dẫn chi tiết cho các công ty vào tháng 6.
Trong khi đó, Liên đoàn Công đoàn Nhật Bản (Rengo) đang yêu cầu tăng lương 5% tại cuộc đàm phán năm nay với ban quản lý của nhiều công ty. Các cuộc đàm phán hàng năm bắt đầu trong tháng 2.
Trong một tuyên bố, Rengo cho biết lao động Nhật Bản đang kiếm được "mức lương thấp hơn trên quy mô toàn cầu" và cần sự giúp đỡ vì giá cả hiện tăng cao.
Một số công ty đã hành động. Fast Retailing (FRCOF) , công ty đứng sau Uniqlo và Theory, đã thông báo vào tháng 1 rằng sẽ tăng lương ở Nhật Bản lên tới 40%, thừa nhận rằng mức lương thưởng "vẫn ở mức thấp" trong những năm gần đây.
Theo một cuộc thăm dò của Reuters được công bố vào tháng 1, hơn một nửa số công ty lớn của Nhật Bản đang có kế hoạch tăng lương trong năm nay. Suntory, một trong những nhà sản xuất nước giải khát lớn nhất Nhật Bản, có thể là một trong số đó.
"Nếu một số doanh nghiệp lớn ở Nhật Bản tăng lương, nhiều công ty khác sẽ làm theo", ông Yamaguchi nhận định.