Trước khi tiến hành biểu quyết, Quốc hội đã nghe Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi).
Theo đó, trên cơ sở 21 ý kiến đại biểu Quốc hội phát biểu, 01 đại biểu tham gia tranh luận và 02 ý kiến bằng văn bản, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Cơ quan chủ trì thẩm tra, Cơ quan soạn thảo, các cơ quan hữu quan nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật.
Hình thức công ty tư nhân và công ty hợp danh không phù hợp với kinh doanh bảo hiểm.
Về hợp đồng bảo hiểm, để tránh xung đột pháp luật, dự thảo Luật đã chỉnh sửa điểm g khoản 1 Điều 25 theo hướng hợp đồng bảo hiểm vô hiệu trong trường hợp giao kết do bị lừa dối đã loại trừ quy định tại Điều 22 về trách nhiệm và hậu quả pháp lý do vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin.
Trên thực tế, số lượng hợp đồng bảo hiểm không thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin sai sự thật khá nhiều. Do đó, việc xử lý hậu quả pháp lý của các hợp đồng bảo hiểm này theo hướng hợp đồng vô hiệu quy định tại Điều 127 của Bộ luật Dân sự là không khả thi vì phải được Tòa án tuyên vô hiệu.
Việc này phức tạp và tạo gánh nặng chi phí cho cả doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm. Do đó, dự thảo Luật quy định việc xử lý hậu quả pháp lý vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ cung cấp thông tin tại hợp đồng bảo hiểm theo hướng hủy bỏ hợp đồng tương tự như quy định tại Điều 423 của Bộ luật Dân sự.
Báo cáo giải trình nêu rõ, về doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài tại Việt Nam, Theo quy định của Luật Doanh nghiệp, có 04 hình thức tổ chức doanh nghiệp. Tuy nhiên, các quy định pháp luật đối với hoạt động quản trị điều hành và công khai thông tin của công ty hợp danh và công ty tư nhân không có yêu cầu nghiêm ngặt như loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, do đó, hình thức công ty tư nhân và công ty hợp danh không phù hợp đối với các công ty yêu cầu quy mô lớn, các công ty có lợi ích công chúng như lĩnh vực bảo hiểm.
Theo kinh nghiệm quốc tế, lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm không áp dụng 02 loại hình doanh nghiệp này; lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng cũng không cho phép 02 loại hình doanh nghiệp này. Vì vậy, Luật Kinh doanh bảo hiểm chỉ lựa chọn 02 hình thức tổ chức là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn.
Thêm vào đó, việc lựa chọn không có mô hình chủ tịch công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có sự khác biệt nhất định so với quy định của Luật Doanh nghiệp do bảo hiểm là lĩnh vực đặc thù, là hoạt động kinh doanh có điều kiện, do đó cần có yêu cầu đặc thù về công tác quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro và kiểm soát nội bộ. Quy định không có mô hình Chủ tịch công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn này cũng tương tự quy định về cơ cấu tổ chức của các tổ chức tín dụng.
Về đại lý bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, dự thảo Luật đã mở theo hướng xã hội hóa việc đào tạo (chỉ quy định về nội dung đào tạo, không giới hạn về hình thức, tổ chức đào tạo) và trao quyền chủ động cho doanh nghiệp bảo hiểm, cơ sở đào tạo khác trong việc đào tạo kiến thức cơ bản và cập nhật kiến thức về sản phẩm bảo hiểm cho đại lý bảo hiểm.
Tuy nhiên, do kinh doanh bảo hiểm là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, để bảo đảm chất lượng đầu ra của nguồn nhân lực, cần thiết phải có sự kiểm soát chặt chẽ việc tổ chức thi và cấp chứng chỉ đại lý bảo hiểm, chứng chỉ môi giới bảo hiểm tương tự như quy định đối với lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán.
Về bảo hiểm vi mô, dự thảo Luật đã quy định cho phép tổ chức tương hỗ triển khai bảo hiểm vi mô, với các điều kiện về tài chính, nhân sự, nghiệp vụ thấp hơn so với doanh nghiệp bảo hiểm để phù hợp với tính chất của bảo hiểm vi mô. Khoản 4 Điều 5 đã quy định về việc Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện đối với việc triển khai và tham gia các sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp, ngư nghiệp và các sản phẩm bảo hiểm vì mục tiêu an sinh xã hội.
Đồng thời, bổ sung thêm điều quy định về các sản phẩm bảo hiểm có sự hỗ trợ của Nhà nước và giao Chính phủ quy định chi tiết các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ phù hợp với định hướng phát triển và điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ
Ngoài ra, về quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉnh sửa dự thảo Luật theo hướng rà soát, lược bỏ một số nội dung đã quy định tại các điều, khoản trong dự thảo Luật hoặc các nội dung đã được quy định trong thẩm quyền của Bộ Tài chính, đồng thời thiết kế lại nội dung về quản lý nhà nước trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo hướng khái quát, ngắn gọn, chỉ quy định các hoạt động Nhà nước thực sự cần nắm giữ, tương tự quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành.
Ngoài ra, Chương này còn quy định nội dung về cơ chế phối hợp trong quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm; quyền yêu cầu cung cấp thông tin trong thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính về hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Sau khi nghe Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi). Kết quả biểu quyết cho thấy, có 469/474 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 94,18%. Như vậy, với đa số đại biểu tán thành, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi). Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2023.
Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi) được Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV thông qua gồm 157 điều. Luật này quy định về tổ chức và hoạt động kinh doanh bảo hiểm; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm; quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Luật này không áp dụng đối với bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tiền gửi và các loại bảo hiểm khác do Nhà nước thực hiện không mang tính kinh doanh.
Đối tượng áp dụng của Luật gồm: Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, tổ chức tương hỗ cung cấp bảo hiểm vi mô; Chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài, chi nhánh doanh nghiệp tái bảo hiểm nước ngoài (sau đây gọi là chi nhánh nước ngoài tại Việt Nam); Văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, doanh nghiệp tái bảo hiểm nước ngoài, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài, tập đoàn tài chính, bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi là văn phòng đại diện nước ngoài tại Việt Nam); Bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm, người thụ hưởng; Cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm; Tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Điều khoản chuyển tiếp của Luật này quy định: Các hợp đồng bảo hiểm đã giao kết trước ngày Luật này có hiệu lực và còn thời hạn hợp đồng thì tiếp tục thực hiện theo quy định của pháp luật tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm có thỏa thuận về việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng để phù hợp với Luật này và để áp dụng quy định của Luật này.
Chứng chỉ đại lý bảo hiểm được cấp trước ngày Luật này có hiệu lực được tiếp tục sử dụng đến hết ngày 31/12/2025. Bộ Tài chính quy định chi tiết việc chuyển đổi chứng chỉ đại lý bảo hiểm được cấp trước ngày Luật này có hiệu lực sang chứng chỉ đại lý bảo hiểm theo quy định của Luật này. Chứng chỉ bảo hiểm, chứng chỉ môi giới bảo hiểm, chứng chỉ về phụ trợ bảo hiểm được cấp trước ngày Luật này có hiệu lực được tiếp tục sử dụng. Kể từ ngày 1/1/2023, doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài dừng trích nộp Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm.
Ngoài ra, việc xử lý số dư Quỹ Bảo vệ người được bảo hiểm quy định tại Điều 97 của Luật Kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 61/2010/QH12 và Luật số 42/2019/QH14 được thực hiện như sau: Toàn bộ số dư của Quỹ Bảo vệ người được bảo hiểm được Bộ Tài chính quản lý để sử dụng cho mục đích bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm mất khả năng thanh toán hoặc phá sản; Chính phủ quy định chi tiết về quản lý và sử dụng số dư của Quỹ Bảo vệ người được bảo hiểm.